Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Tài liệu Thi truong chung khoan pptx

Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc
nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành,
tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh.
4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
- Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam.
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với
các quy định của luật pháp và UBCK.
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch
chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng
lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã
cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
Bài 02: Giới thiệu về Cổ phiếu
I. Khái niệm Cổ phiếu:
Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau
gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng
nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu.
Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông
đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.
Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi:
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công
ty như: Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ
máy quản trị và kiểm sóat công ty; Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản
tương ứng với phần vốn góp của mình.
Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ
phiếu thông thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế như: lợi tức cố định;
không có quyền bầu cử, ứng cử v.v.
II. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu:
Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy
động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không
cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về
khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các
phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng
thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu
nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và
dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định
phương thức áp dụng thích hợp.
Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu
được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng
chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị
trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người
mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có
hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát
triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một
phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng
thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển
của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ
phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường
Bài 03: Lợi ích của việc đầu tư qua cổ phiếu:
I. Lợi ích đầu tư cổ phiếu
Được chia lời dưới hình thức cổ tức. Mua vàng bạc, đá quý và bất động sản chỉ có lợi khi
giá tăng, không có cổ tức và mệnh giá tăng như mua cổ phiếu. Cổ phiếu được hưởng lợi
tuỳ theo kết quả kinh doanh của công ty phát hành, không có sự bảo đảm chắc chắn
như trái phiếu. Nhưng cổ phiếu có thể được chia lời nhiều hơn cả trái phiếu khi công ty
làm ăn phát đạt. mệnh giá cổ phần gia tăng bởi tích luỹ nội bộ của công ty.
Giá cổ phiếu trên thị trường tăng cao hơn mệnh giá. Thực tế cho thấy, những nước
đang trong giai đoạn phát triển thường cổ phiếu tăng giá rất nhanh, nên nó trở thành
một công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu. Ttong thời gian từ 1969-1980, cổ phiếu công
ty Schlumberger tăng từ 3,50 USD lên 131 USD, chưa kể sau 5 lần tách cổ phiếu từ 100
thành 160, và cổ tức tăng từ 0,09 USD lên 0,97 USD…Trong thập niên 70, giá cổ phiếu
tăng chậm hơn so với giá vàng, kim cương, bất động sản…Nhưng chính giá cổ phiếu
tăng chậm hơn giá các thứ hàng hoá đó, cổ phiếu lại hấp dẫn đối với người mua vì
nhiều người tin rằng giá cổ phiếu sẽ tăng lên sau đó.
Với một lượng cổ phiếu trong tay, các cổ đông được quyền tham gia biểu quyết các vấn
đề của công ty. Thậm chí khi đạt tới một mức độ sở hữu quy định, cổ đông đó được
quyền quản trị, kiểm soát công ty.
Cổ phiếu có thị trường rộng lớn, nên việc mua bán dễ dàng và nhanh chóng. Bán nhà,
bán đất, bán xe hơi khó khăn hơn nhiều so với bán cổ phiếu.
Cổ phiếu có thể giúp nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, không cần
thiết phải có sự hiểu biết về kỹ thuật công nghệ của lĩnh vực đó. Một khi không bằng
lòng ở lĩnh vực này sẽ bán cổ phiếu đó đi để mua cổ phiếu của lĩnh vực khác.
Một ưu điểm đáng chú ý nữa là ngành chứng khoán hiện nay đang rất được chính phủ
của các nước khuyến khích nên có nhiều ưu đãi về thuế thu nhập. Luật thuế thu nhập
thường đánh rất thấp hoặc có thời kỳ được miễn hẳn cho số lợi nhuận thu được từ đầu
tư chứng khoán.
Mua cổ phiếu có lợi như vậy, nhưng đó là trường hợp mua đúng. Nếu mua không đúng
loại cổ phiếu cần mua, mua phải những cổ phiếu công ty đang trong thời kỳ khủng
hoảng hoặc phá sản…thì không những không có lợi mà còn bị mất luôn cả vốn đầu tư.
Vì vậy, việc mua bán cổ phiếu phải có sự lựa chọn.
II. Lựa chọn cổ phiếu là vấn đề quan trọng và phức tạp.
Trong việc lựa chọn ta phải tìm hiểu quá trình hoạt động của công ty cũng như ngành
nghề kinh tế liên quan đến loại cổ phiếu đó. Đồng thời cũng cần theo dõi và tìm hiểu
trào lưu giá cả lên xuống trên thị trường, để quyết định lúc nào nên mua, lúc nào nên
bán.
Để cho vấn đề trở nên dễ hiểu, ta có thể chọn một số cách thức phân tích theo nguyên
tắc cơ bản sau:
- Chọn công ty tốt. Công ty tốt thường là công ty ít nợ trong thời gian đã qua (thời gian
càng dài càng tốt), và có lợi nhuận cao, hiện tại có lãi và triển vọng tương lai sáng sủa.
- Chọn thời điểm mua cổ phiếu: Giá cổ phiếu thường không đứng yên, mà lúc lên lúc
xuống. Vậy nếu ta chịu khó theo dõi trào lưu, mua vào khi giá ở mức thấp nhất và bắt
đầu đi lên, và bán ra lúc thị trường ở mức cao nhất và bắt đầu đi xuống thì sẽ có lời
cao. Đây cũng là nguyên tắc thông thường trong kinh doanh.Giá một loại cổ phiếu luôn
luôn chịu ảnh hưởng của những trào lưu lên xuống giá của TTCK. Trong thời kỳ lên giá,
thị trường thường kéo theo 70-80% loại cổ phiếu cũng lên. Khi xuống giá cũng tương
tự. Bởi vì cũng giống như thị trường hàng hoá, khi có nhiều người cùng mua một món
hàng nào đó thì giá hàng đó sẽ lên, kéo theo các hàng hóa khác cũng lên. Giá một loại
chứng khoán sẽ lên khi có nhiều người cùng mua, và giá sẽ tụt xuống khi có nhiều
người cùng bán.
- Mua cổ phiếu được chia lợi nhuận. Thông thường cứ 6 tháng một lần, công ty lại tiến
hành trả cổ tức. Đây là khoản thu nhập định kỳ của Cổ phiếu. Mức chi trả cổ tức căn cứ
vào tình hình hoạt động và lợi nhuận của công ty trong kỳ cũng như các chính sách phát
triển của công ty
Bài 04: Giới thiệu trái phiếu
1. Khái niệm:
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay
tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định,
thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban
đầu khi nó đáo hạn.
2. Đặc điểm:
a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính:
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon)
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu tư .
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và
như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu
(trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn,
song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ
kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách
của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi
suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn
chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
3. Phân loại trái phiếu.
3.1. Căn cứ vào việc có ghi danh hay không:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng như
trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi
đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi
trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản
cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên chứng chỉ
và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn
gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang
ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật
chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên
máy tính.
3.2. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó:
Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích bù
đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết
tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái
phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được
xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ
hạn.
Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những
mục
đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc
lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa
phương phát hành.
Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Trái
phiếu công ty có đặc điểm chung sau:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các
quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người
mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá.
Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước các cổ
phiếu.
Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế chấp cụ thể,
thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một
mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản
cụ thể.
Trái phiếu không bảo đảm:
Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp
của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết
quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước cổ động.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái
phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi
có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể
xác định.
Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái phiếu được phát hành có thể được gắn kèm
theo những đặc tính riêng khác nữa nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó.
Cụ thể là:
- Trái phiếu có thể mua lại cho phép người phát hành mua lại chứng khoán trước khi
đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành song lại bất lợi cho
người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất cao hơn so với những trái phiếu
khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán lại trái
phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ động trong trường
hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu này có thể thấp hơn so với
những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
- Trái phiếu có thể chuyển đổi cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi trái phiếu
thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở thành người chủ sở
hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào nhóm hàng hoá chứng khoán có thể
chuyển đổi được đề cập tới dưới đây.
4. Lợi ích của đầu tư qua trái phiếu:
- Dù làm ăn thua lỗ, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc bỏ như cổ
phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được trả tiền trước người
có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường. Nhưng nếu công ty có lợi nhuận cao, công
ty có thể chia thêm cổ tức cho người có cổ phần, thì trái chủ vẫn chỉ được hưởng ở mức
đã định.
- Trái phiếu có loại được miễn thuế thu nhập (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương). Đối với những người có thu nhập cao, mua trái phiếu trên vẫn có
lợi.
- Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi suất thị trường.
Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn có lợi.
5. Bất lợi khi đầu tư trái phiếu:
Khi nhận được tiền lãi phải lo đầu tư số tiền đó vì rất ít công ty có chương trình tái đầu
tư tiền lãi trái phiếu. Trong khi đó, nhiều công ty có chương trình tái đầu tư cổ tức. Cổ
đông có thể mua thêm cổ phần được miễn sở phí, và có khi còn được mua cổ phần với
giá rẻ hơn giá thị trường.
Giá trái phiếu công ty cũng biến động khá mạnh trên thị trường: khi lãi suất thị trường
lên cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ hạ. Khi cơ quan đánh giá xếp loại
doanh nghiệp, đánh giá công ty phát hành từ loại AAA(3A) xuống AA(2A) hoặc xuống
BBB(3B) thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ. Hoặc khi có sự mất mát thị trường, vỡ nợ… thì
giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.Và giá trái phiếu cũng sẽ giảm đi khi có ít người mua.
6. Khi đầu tư trái phiếu cần chú ý gì?
Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: chiều hướng lên xuống của lãi suất và
uy tín của công ty phát hành.
Nên mua trái phiếu lúc lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang trên đà giảm dần. Và
nên mua trái phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi suất cao trong một thời gian dài.
Ngược lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán trái phiếu dài hạn
đi để mua vào trái phiếu trung hạn.
Bài 05: Chứng khoán có thể chuyển đổI
3. Mục đích của việc phát hành và đầu tư vào chứng khoán chuyển đổi: Phát hành chứng khoán có
thể chuyển đổi là nhằm huy động thêm vốn vào những thời điểm chưa thích hợp cho việc phát hành
cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục đích tăng
thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang
xuống giá.
1. Khái niệm:
Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa
chọn và trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường phổ biến là:
- Cổ phiếu ưu đãi.
- Trái phiếu.
4. Lợi ích của trái phiếu chuyển đổi:
Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi trái phiếu này ra cổ
phiếu thường khi đến hạn, nên:
+ Nếu là trái phiếu: bên phát hành sẽ bán trái phiếu ra với lãi suất thấp.
+ Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được các khoản cố
định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một chỉ báo có lợi cho danh
tiếng của công ty.
* Đối với người đầu tư:
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp được tính an toàn của trái
phiếu (thu nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ phiếu thường.
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo hiểm trước tình trạng lạm
phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tuỳ thuộc nhiều vào giá chuyển đổi, tỷ lệ
chuyển đổi, và tương quan giá giữa công cụ có thể chuyển đổi với những công cụ mà chúng có
thể chuyển đổi thành. Đó là những yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu
tư.
Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng được đổi lấy một cổ
phần của cổ phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000 đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000
đồng: 50.000 đồng = 20 (cổ phần).
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng ; được chuyển thành 100 cổ phần
của một cổ phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là 1.045.000 đồng:100 = 10.450 đồng.
Điều đó có nghĩa là giá trị trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045 đồng thì việc nắm giữ trái
phiếu và chuyển đổi nó thành cổ phiếu mới được coi là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị
trường của cổ phiếu cao hơn giá tương đương chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần
lợi nhuận.
Trên thực tế rất có thể giá cổ phiếu không lên tới mức mà người nắm giữ trái phiếu có thể chuyển
đổi trái phiếu để thu lợi nhuận.
Bài 06: Các công cụ phái sinh
I. Khái niệm:
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ
phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo
lợi nhuận.
II. Các loại công cụ phái sinh:
1. Quyền lựa chọn (Option)
a. Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là
quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một
mức giá xác định, và trong một thời gian nhất định.
Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương
phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
b. Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
Thời hạn của quyền.
Mức giá thực hiện theo quyền.
c. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì
quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc
thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn ( at
the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money). Đối với quyền chọn bán thì
ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của
hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ
sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là
giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị
trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần phụ
trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền)
được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện).
Ví dụ 1: Giá của một quyền chọn mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000
đồng. Người giữ quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức là
mua 100 cổ phần ( mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000 đồng, cũng theo mức
giá thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó bán ngay với giá thị trường, thu về
4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là 200.000 đ.
Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá trị nội tại = 400.000 đ-200.000 đ = 200.000 đ
Người mua vẫn sẵn sàng trả phần phụ trội cho các quyền lựa chọn vì họ nhận được nhiều lợi ích
từ một quyền lựa chọn.
d. ứng dụng của quyền lựa chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư cao nhất.
Ví dụ 2: Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000 VND/cổ phần, và bạn dự đoán
sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa
chọn có liên quan đến giao dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn
mua cổ phiếu XYZ với giá 40.000 VND/cổ phần.
Trong vòng 6 tháng giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán
giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng ra thị trường với
giá 50.000 đồng.
Nhu vậy bạn đã tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đã thu được lợi nhuận 60.000
đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong khoảng thời gian là 6 tháng.
Quyền lựa chọn được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận
Ví dụ 3: Với XYZ đang có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán
một quyền chọn mua XYZ 44.000 với giá quyền là 400.000 đồng.
Nếu giá thị trường của XYZ giảm xuống 40.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước khoản
thua lỗ nhờ có 40.000 đồng nhận được từ việc bán quyền chọn. Nếu XYZ tiếp tục giảm giá thì
đương nhiên người bán sẽ mất tiền. Như vậy
khoản thu 40.000 đồng từ việc bán quyền lựa chọn tạo ra một sự bảo vệ cụ bộ đối với tình trạng
sụt giá.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được thực hiện. Khoản thu phụ
trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng đầu tư.
2. Quyền mua trước (right)
Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này
được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền
cho phép một cổ đông mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời
gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang lưu hành được kèm theo
một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành
mới.
Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính
bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới
theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có giá thị trường
là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần mới thì giá của quyền được xác định
theo công thức
Vr = P0 - Pn/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền, P0 là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, Pn là giá
thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua một cổ phiếu mới.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000 đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời
gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc
biến động giá thị trường của cổ phiếu.
3. Chứng quyền (warrants)
Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ phiếu, với một giá xác
định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công
ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ
phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu
tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
Đặc điểm:
Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ cơ
sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền
được thực hiện, nó tạo thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành
trên thị trường.
Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi
chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ
phiếu; tại thời điểm chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường
của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời hạn của quyền,
đa số trường hợp là 5 đến 10 năm.
4.Hợp đồng kỳ hạn
Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực
hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai
với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào; từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các chứng
khoán.
Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận
với nhau, dựa theo những ước tính mang tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay
vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký
kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức
giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường.
Như vậy bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm
năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng,
cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay
đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không
thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể
không chính xác.
5. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những nhược điểm của hợp
đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh.
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
1. Niêm yết trên sở giao dịch. Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một
Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua bán được
cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
2. Xoá bỏ rủi ro tín dụng. Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao
dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty thanh
toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho công ty
thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên
không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh hưởng gì đến bên kia.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét