5
tác khuyến nông cần phải chủ động, linh hoạt, biết liên hệ với thực tiễn gắn
với điều kiện cụ thể của ngời nông dân, để họ hiểu đợc điều mà ta muốn
truyền đạt tới cho họ.
2.1.1.2. Chọn lọc
Nhận thức của chúng ta mang tính chọn lọc rất kĩ lỡng. Các chuyên
gia thông tin - ngời hiểu rất rõ những nhân tố này, chắc chắn sẽ tạo đợc sự
chú ý của ngời tiếp nhận thông tin ở những phần nào đó của bức thông điệp
mà họ muốn nhấn mạnh. Họ cũng biết thông điệp cần nhấn mạnh chỗ nào,
nhắc lại hay lợc bỏ để làm cho ngời nhận thông tin không phải bận bịu với
những thông tin thừa và vô bổ. Trong công tác chuyển giao tiến bộ khoa học -
kỹ thuật đến với ngời nông dân, ta cần biết điểm nào, chỗ nào là quan trọng,
cần phải nhấn mạnh, để họ có thể chú ý, quan tâm nhiều hơn đến vấn đề đó.
Nh vậy sẽ tạo ra một khoảng cách nhất định, giúp họ nhận biết đợc những
thông tin nào là quan trọng và những thông tin nào là bổ trợ.
Những kinh nghiệm trớc đây cũng có ảnh hởng đến sự chọn lọc
nhận thức của chúng ta. Những nông dân đã làm chăn nuôi nhiều năm sẽ hiểu
rất rõ sự khác nhau dù rất nhỏ về ngoại hình, chất lợng lông và những điều
kiện chung của vật nuôi hơn là những ngời cha quen làm công việc chăn
nuôi. Sinh viên nông nghiệp đợc đào tạo về nông học và thực vật học sẽ hiểu
đồng cỏ nh là một sự su tập của những cây trồng đặc biệt, một vài loại trong
số đó có giá trị dinh dỡng cao, còn một số khác thì coi nó có thể chỉ là những
thứ cỏ vô tác dụng. Mặt khác một ngời không đợc đào tạo về thực vật có thể
chỉ quan sát thấy đơn giản đó là một thảm cỏ. Do đó, ngời làm công tác
khuyến nông không chỉ truyền đạt một loại thông tin mà cần đa tới cho
ngời nông dân nhiều loại thông tin khác nhau, thuộc các lĩnh vực khác nhau,
để có thể thay đổi đợc cách nhìn, cách nghĩ của họ tới cùng một đối tợng.
2.1.1.3. Tổ chức
Nhận thức của chúng ta đợc tổ chức lại. Chúng ta có xu hớng sắp
xếp những nhận biết của cảm giác theo cách chúng có thể có ý nghĩa nào đó
cho chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể giải thích một bức ảnh của một ngời
đàn ông với một bộ mặt, đôi tay bẩn thỉu và bộ quần áo cũ kĩ nh là một ngời
lời biếng hay rất nghèo. Mặt khác chúng ta có thể giải thích bức tranh đó nh
6
là một ngời nông dân chăm chỉ nếu nh bức tranh đó còn có cả một trang trại
ở phần nền. Vì vậy, khi truyền đạt thông tin đến với ngời nông dân, ngời
làm công tác khuyến nông cần lồng ghép các khuôn mẫu, điển hình trên thực
tế để bổ sung, chứng minh, giải thích cho các thông tin mà mình đa tới. Có
nh vậy ngời nông dân mới tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả.
2.1.1.4. Hớng dẫn
Những sắp đặt thần kinh của chúng ta tác động đến những gì chúng ta
lựa chọn và làm thế nào để chúng ta tổ chức và giải thích nó. Sắp đặt là một
khái niệm nhận thức quan trọng có thể đợc nhà thiết kế thông tin sử dụng để
giảm bớt những giải thích có thể có cho một sự vật nào đó. Một ngời viết bài
cho một tập san khuyến nông bắt đầu bài viết của mình bằng một tóm tắt sẽ
sắp đặt cho ngời đọc tìm ra những điểm chính trong bài viết đó.
Việc hỏi một câu hỏi cụ thể nào đó trong một cuộc phỏng vấn có thể
điều khiển ngời trả lời theo một định hớng đặc biệt nào đó. Vì thế khi soạn
thảo ra các bộ câu hỏi, việc tránh câu trả lời đợc sắp đặt sẵn bằng cách
chuyển từ những câu hỏi chung chung sang những câu hỏi cụ thể là rất quan
trọng.
Ngời làm công tác khuyến nông thờng đợc đào tạo chu đáo và có
những kiến thức mang tính khoa học mà họ đã học đợc để nhận thức các điều
kiện nông nghiệp theo một cách nào đó. Những ngời này mà họ phục vụ -
nông dân có thể nhận thức các điều kiện ấy một cách khác hẳn. Họ có thể đặc
biệt nhấn mạnh những hiện tợng thần bí nh các giai đoạn của mặt trăng khi
trồng trọt. Ngời làm công tác khuyến nông phải học để hiểu đợc những
nhận thức này trớc khi cố gắng làm thay đổi nó.
2.1.1.5. Loại nhận thức
Một cá nhân này sẽ có những nhận thức rất khác với cá nhân kia trong
cùng một tình huống xảy ra, bởi vì họ có những loại nhận thức khác nhau.
Nhiều kết quả bằng mắt hay những chứng minh quang học phụ thuộc vào một
thực tế là chúng ta không thể nhận thức không gian một cách trực tiếp mà phải
suy luận chúng từ những kí hiệu. Chúng ta có xu thế dự tính quá độ dài của
đờng kẻ dọc trong hình 2.1, trong khi thực tế thì cả đờng kẻ dọc lẫn đờng
ngang đều có độ dài bằng nhau.
7
Vì thế ngời soạn thảo thông tin nên chọn những phơng pháp giới
thiệu phù hợp với kĩ năng của thính giả. Ngời làm công tác khuyến nông ở
các nớc đang phát triển thờng phải làm việc với những nông dân ít đợc học
hành, vì thế họ phải tập trung vào việc trình bày những thông tin thật cụ thể
chứ không phải những thông tin trừu tợng.
Hình 2.1: Sự chứng minh về cảm quang
(A.W.Van den Ban & H.S Hanwkins, 1998) [19]
2.1.2. Một vài hớng dẫn giúp truyền đạt thông tin một cách có hiệu quả
2.1.2.1. Thu hút và gây sự chú ý
Một bức thông điệp khuyến nông sẽ không có tác dụng nếu nông dân
không tiếp nhận chúng. Thậm chí, nếu họ tiếp nhận nó thì họ phải chú ý xem
có thể học hỏi đợc điều gì không. Họ có thể tiếp nhận một tạp chí khuyến
nông nhng chẳng bao giờ đọc nó cả, hoặc mở đài để nghe chơng trình ca
nhạc thay cho việc nghe chơng trình khuyến nông trên vô tuyến. Một ngời
làm thông tin giỏi vì thế phải soạn thảo những bức thông điệp có thể thu hút
hay giữ đợc sự chú ý trong quá trình thông tin.
Một nhà khuyến nông nào đó định sử dụng bộ ảnh đèn chiếu, cũng
thỉnh thoảng nên chú ý bao gồm cả một số ảnh đen trắng trong bộ su tập của
mình. Tính độc đáo cũng là một yếu tố rất quan trọng trong các thông điệp
khuyến nông.
2.1.2.2. Sử dụng tranh ảnh hay từ ngữ
Chuẩn bị một thông điệp có cả tranh ảnh lẫn từ ngữ là công việc
thờng làm của cán bộ khuyến nông. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: các
bức tranh có hiệu quả hơn là những từ ngữ khi phân biệt về mặt không gian.
Một bức ảnh hay tranh về một cây hay một con vật chắc chắn sẽ tạo ra một ý
nghĩa chung hơn là mô tả bằng lời nói hay viết ra. Tuy nhiên, sử dụng các từ
sẽ rất tốt cho việc phân biệt các yếu tố về thời gian nh tần suất và trình tự.
8
Các khái niệm nh: sự sinh trởng của cây trồng, chu kì sinh trởng và xói
mòn đất bao gồm cả không gian và thời gian thì sử dụng cả tranh ảnh lẫn từ
ngữ là rất thích hợp. Các từ ngữ cũng có thể tạo ra sự chú ý đối với những sự
thay đổi về không gian mà nó đợc nhìn bằng mặt.
2.1.2.3. Học bằng thực hành
Những ngời nông dân thờng học nghề bằng thực tế làm nông nghiệp
và quan sát những kết quả lao động của họ. Hầu hết nông dân ở các nớc công
nghiệp coi kinh nghiệm thực tế là tốt nhất và họ thờng cố gắng học hỏi, mặc
dù họ có rất nhiều cơ hội để học về phơng pháp phát triển nông nghiệp mới
bằng cách tham gia các lớp tập huấn, hoặc đọc báo chí
Khái niệm phát triển trong các chơng trình khuyến nông bao gồm
một tiến trình mà chúng ta lựa chọn giữa những kinh nghiệm cụ thể và những
khái quát hoá trìu tợng. Những khái quát hoá giúp chúng ta hiểu đợc và đặt
những kinh nghiệm cụ thể mới vào phạm vi của nó. Sau đó những kinh
nghiệm cụ thể lại giúp ta mở mang và sàng lọc những khái quát hoá của chúng
ta. Đôi khi trong khuyến nông, chúng ta có xu hớng chuyển quá nhanh từ
những kinh nghiệm cụ thể và thực tế tới những khái quát hoá trừu tợng.
Nh vậy, trên cơng vị là nhà thông tin, tuyên truyền nói chung và
ngời cán bộ khuyến nông nói riêng, nghiên cứu nhận thức của con ngời -
nông dân sẽ giúp ta biết cách sử dụng kênh thông tin nào để truyền đạt tới
ngời nông dân sao cho đơn giản và dễ dàng nhất mà ngời tiếp nhận thông
tin có thể hiểu đợc một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác.
Con ngời tiếp nhận thông tin, kiến thức, kĩ thuật mới qua rất nhiều
kênh truyền khác nhau nh: tivi, đài, báo, sách vở, trao đổi với bạn bè, tham
quan, trình diễn, tập huấn Đề tài tiến hành nghiên cứu sự tác động của một
loại kênh truyền đến đội ngũ cán bộ khuyến nông và nông dân đó là: Đào tạo,
tập huấn khuyến nông. Thực chất, vai trò của đào tạo, tập huấn đến cán bộ
khuyến nông và nông dân nh thế nào?
2.1.3. Đánh giá trong khuyến nông
2.1.3.1. Vài nét cơ bản về đánh giá trong khuyến nông
Đánh giá là định một giá trị hoặc một phần xét đối với một sự vật nào
đó. Đánh giá công tác khuyến nông là đa ra những nhận xét về giá trị các
9
hoạt động khuyến nông (PGS.TS Chanoch Jacobsen, 1996) [18]. Trong các
đánh giá khuyến nông, chúng ta sẽ trả lời câu hỏi cơ bản là: Nỗ lực đã thực
hiện có xứng đáng với những gì định ra hay không? Nói cách khác chúng ta
đã thực hiện đợc các mục tiêu của chúng ta đến mức nào?
Chẳng có gì mới lạ hay bí hiểm. Trong cuộc sống thờng nhật ta luôn
luôn thực hiện đánh giá. Vào bữa ăn tối, ta nếm món súp và nói ôi, mặn quá,
đó là đánh giá. Hoặc một nông dân nhìn con bò chửa đang ăn cỏ và nghĩ
thầm: Rồi ngày nào đó nó sẽ là con bò sữa tốt đây. Đó cũng là một sự đánh
giá.
Mọi đánh giá gồm ba bớc cơ bản. Trớc tiên, nhận thông tin, song so
sánh thông tin đó với một tiêu chuẩn nào đó và cuối cùng đa ra một nhận xét
dựa trên so sánh đó. Ngay cả đánh giá nh nếm bữa súp cũng trải qua ba bớc
nh vậy. Ta thu thập thông tin bằng cách húp một thìa hoặc hơn, ứng dụng
tiêu chuẩn do ta định (theo ta, súp phải nh thế nào?) vào vị nếm trong miệng.
Sau đó nhận xét súp ngon, tồi hoặc bình thờng, ăn đợc, mặn hay quá lửa
trên cơ sở so sánh giữa bằng chứng (súp) với tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, các đánh giá khác nhau về định lợng thu thập thông tin,
mức độ khách quan của tiêu chuẩn đã sử dụng và trình độ chính xác của các
nhận xét. Về cơ bản đó là chỗ khác biệt giữa các đánh giá hàng ngày nh
trờng hợp đĩa súp với các bảng nghiên cứu đánh giá. Đánh giá hàng ngày
nhìn chung là bộc phát, chủ quan và cũng có khi lệch lạc. Và kết quả là những
kết luận không mấy đáng tin cậy. Nghiên cứu khoa học nhằm đạt đợc độ tin
cậy bằng cách lập kế hoạch cẩn thận, dùng những tiêu chuẩn khách quan để so
sánh và bằng cách tránh lệch lạc (càng nhiều càng tốt) trong việc thu thập
thông tin và rút ra kết luận.
Không phải bất cứ đánh giá khuyến nông nào cũng phải qua nghiên
cứu mổ xẻ khoa học, nhng cũng không thể thực hiện giống nh một nhận xét
ngẫu nhiên. Có thể sử dụng nhiều mức chính xác và tinh vi khác nhau. Chẳng
hạn, nghe xong một bài nói chuyện, ta có thể đa ra một đánh giá ngay dựa
trên cảm giác của bản thân với ngời nói và dừng lại ở đó. Cũng có thể trao
đổi với những ngời nghe khác và rút ra kết luận từ các ý kiến kết hợp đó. Nếu
muốn có số liệu chính xác hơn, có thể cấu trúc một bảng câu hỏi và thu thập
10
thông tin về định lợng để thực hiện phân tích thông kê. Để đánh giá khoa học
hơn nữa, nên rút ra một mẫu đại diện, thử trớc bằng câu hỏi đó và kiểm tra
giá trị của tiêu chuẩn để so sánh.
Song, tuy có những khác biệt, tất cả các ví dụ trên đều là việc đánh
giá. Vì chúng ta không có đủ thời gian để đạt đợc độ chính xác và khoa học
cho mọi sự vật, nên tất cả chúng đã có tính sử dụng trong công tác khuyến
nông. Vả lại, ta không thể nào trình bày mọi chi tiết của một công trình đánh
giá khoa học trong một chơng ngắn. Mặt khác phải làm sao cho những đánh
giá về công tác khuyến nông đáng đợc tin cậy hơn đôi chút so với hiện nay
bằng việc lập kế hoạch cẩn thận và có hệ thống cho bất cứ công việc phải làm.
2.1.3.2. Đánh giá cái gì?
Lý do rõ rệt và đơng nhiên nhất phải thực hiện việc đánh giá bất kể ở
trình độ chính xác nào là xem có vấn đề gì đó sai, rằng có vấn đề không
những kết quả mà cả các tình trạng hoạt động cũng có thể phải đợc đánh giá
nhằm hiểu chính xác hơn tính chất của vấn đề để có thể phải làm gì trớc mắt.
Chẳng hạn, giả thiết rằng đã chuẩn bị một ngày trình diễn cho 500
nông dân trong huyện, nhng chỉ có 50 ngời đến dự. Nh vậy vẫn phải đánh
giá chơng trình và chuẩn bị cho ngày trình diễn đó. Hoặc có thể ta đã mời
chuyên gia đến nói chuyện cho một nhóm nông dân về một vấn đề trồng trọt.
Song khi giảng hóa ra anh ta nói về những nhận thức, hoạt động trên thế giới
và chủ đề hơn là vấn đề thực tiễn trớc mắt của nông dân nh đã định. Đánh
giá việc xác định các mục tiêu cho bài nói chuyện có thể giúp tìm ra nguyên
nhân của việc thất bại đó.
Tóm lại, đánh giá khuyến nông không nên chỉ giới hạn ở việc đánh giá
kết quả cuối cùng. Kết quả cuối cùng đơng nhiên là quan trọng, song các
khuyến nông viên phải tạo cho mình thói quen đánh giá có hệ thống tất cả các
giai đoạn của công việc, đặc biệt khi sự việc diễn ra không trôi chảy.
2.1.3.3. Ai phải đánh giá?
Về nguyên tắc, đánh giá khuyến nông có thể do một trong bốn thành
phần sau đây: nông dân (hoặc khách hàng), bản thân các khuyến nông viên,
những cấp trên quản lý, hoặc chuyên gia bên ngoài đánh giá. Mỗi thành phần
đó có vị trí riêng trong việc đánh giá công tác khuyến nông tùy theo mục đích
11
của việc đánh giá.
Phần lớn nông dân sau khi xem trình diễn sẽ thực hành so sánh và
đánh giá ngay một cách hoàn toàn tự nhiên cho bản thân họ. Có thể họ còn
thảo luận ý kiến của họ với gia đình, láng giềng và bạn bè. Khuyến nông viên
khi thu thập hệ thống các ý kiến đó có thể thu thập đợc các phản hồi có giá
trị về các hoạt động của bản thân. Rõ ràng là ngời dự nghe càng nói lên
nhiều ý kiến và càng có nhiều sự đồng tình trong số họ thì đánh giá càng đáng
tin cậy.
Các khuyến nông viên có nhiều cơ hội để tự mình thực hiện đánh giá.
Tổ chức những cuộc họp thành viên để xem xét những hoạt động quy mô lớn
nh ngày trình diễn chẳng hạn hay những cuộc hội thảo là những cơ hội tốt để
thu thập thông tin và đánh giá công việc khi kết quả còn mới đọng lại trong trí
nhớ. Ngoài ra khuyến nông viên còn có thể quan sát một cách hệ thống và ghi
lại những tiến bộ về mùa vụ, gia súc, bảo dỡng máy móc và những vấn đề đã
xúc tiến nếu anh ta hỏi han đều đặn các nông dân. Loại thông tin đó rất có thể
là cơ sở hoàn toàn đáng tin cậy để đánh giá chơng trình khuyến nông của anh
ta về các chủ đề đó.
Nếu các cấp trên nh giám sát viên cấp huyện hoặc các giám đốc cỡ
quốc gia chỉ đạo việc đánh giá thì luôn luôn xảy ra tình trạng các nhân viên tại
chỗ hoặc cả nông dân sợ hãi có một nguy cơ to lớn nào đó hay sẽ bị phê phán.
Và kết quả là xảy ra sự hợp tác thậm chí giấu giếm các sự kiện có tính toán để
che chở và bảo vệ những ai bị đe dọa. Vì vậy, loại đánh giá trình độ đó thờng
thiếu cơ sở tin cậy. Mặt khác, để đánh giá trình độ thực thi của nhân viên
khuyến nông nhằm huấn luyện, đề bạt, thuê mớn hoặc loại bỏ, thì việc cấp
trên trực tiếp hoặc các trợ thủ điều khiển việc đánh giá là hoàn toàn phù hợp.
Việc đánh giá các chơng trình cỡ quốc gia hay khu vực gồm nhiều
hoạt động bộ phận dân c rộng lớn, một phần lớn cán bộ và có nhiều chủ đề,
thờng tốt nhất là giao cho các chuyên gia thực hiện bằng những công trình
đánh giá. Những chuyên gia đó nên tìm trong lĩnh vực giáo dục, xã hội, tâm lý
học và công tác xã hội. Họ có đủ bí quyết cần thiết để cấu trúc những bảng
câu hỏi, kỹ thuật điều tra mẫu điển hình, phơng pháp phân tích thống kê và
suy luận để thực hiện tốt công tác. Dùng họ sẽ đạt đợc độ tin cậy lớn hơn vào
12
các kết luận. Điều khó khăn chủ yếu là những đề nghị thay đổi do các chuyên
gia ngoài ngành đề xuất, cho dù tỏ thái độ tán thành hay có logic đi nữa thì
cũng ít khi đợc các quan chức tiếp thu có thiện cảm ngay cả khi chính họ cho
phép nghiên cứu và dùng ngân sách của họ để tài trợ.
Nhìn chung, ngời đánh giá càng cố gắng đa ra kết quả đánh giá thì
càng có cơ may các kết luận đợc thực hiện đúng nh vậy và ngợc lại, nếu
những bằng chứng đánh giá bị lệch lạc và thiếu độ tin cậy. Vậy hãy tìm cách
giữ một sự cân đối giữa hai tình huống.
2.1.3.4. Lập kế hoạch đánh giá
Phần này trình bày trình tự các bớc tuân theo một cách hệ thống
trong việc lập kế hoạch nghiên cứu đánh giá. Số lợng các chi tiết sự kiện tùy
thuộc chủ yếu vào phạm vi đánh giá định sẵn. Nói chung phạm vi càng rộng,
thì càng phải cần nhiều chi tiết song với cả những đánh giá tủn mủn cũng cần
phải giành mạch và tránh tình trạng đánh giá theo lối ứng khẩu. Có năm bớc:
1. Định nội dung vấn đề:
Ta không bao giờ có đủ thời gian và t liệu để đánh giá những gì có
thể hoặc thậm chí cần phải đợc đánh giá. Vậy phải chọn lọc và thực hiện một
lựa chọn hợp lý. Hãy tự hỏi vấn đề gì cần giải quyết hoặc tạo điều kiện để giải
quyết bằng việc đánh giá này? Vấn đề nào quan trọng hơn, cấp thiết hơn các
vấn đề khác? Có thể đặt câu hỏi theo cách khác: Vấn đề nào thực sự cần đánh
giá và tại sao cần đánh giá?
Những câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ là lý do cơ bản để chọn từng
vấn đề cần đánh giá và vấn đề nào không cần. Ngoài ra chúng còn giúp xác
minh nỗ lực ta cần đòi hỏi hỗ trợ tài chính và hợp tác.
2. Xác định mục đích:
Sau khi chọn nội dung đánh giá, cần phải rành mạch hơn nữa. Cần biết
gì để giải quyết vấn đề đã chọn lựa? Cần những câu hỏi nào để có lời giải đáp?
Đặt câu hỏi nh thế nào để khi có câu trả lời thì có thể đa thành đầu
vào của vấn đề và đạt đợc giải pháp.
Chẳng hạn, đã quyết định đánh giá các báo cáo đã định ký gửi đến văn
phòng vùng.
13
Trớc kia vì có thể ta có thời gian để viết các báo cáo vấn đề và xem ra
chúng chẳng có gì khác nhau lắm. Nay cần đặt ra những câu hỏi nào để đợc
trả lời nhằm tìm ra giá trị các báo cáo về công tác khuyến nông? Có thể có
những ví dụ sau:
- Cái gì xảy ra khi văn phòng vùng nhận đợc các báo cáo trên?
- Ai đọc chúng và vào lúc nào?
- Những báo cáo nào đã khêu gợi phản ứng xảy ra trớc kia và những
báo cáo đó khác với những báo cáo xem ra đã bị bỏ qua ở chỗ nào?
- Khi làm các báo cáo đó, phần nào mất nhiều thời gian nhất? Khi thu
thập thông tin? Hay sắp đặt suy nghĩ lại? Hay là khi viết? Có thể cần phải
khoa học hơn nữa và đặt giả thuyết từ những câu hỏi đó. Sau đó, những giả
thuyết phải đợc đối chiếu kiểm tra với dữ liệu thu thập đợc. Chẳng hạn, với
ví dụ thứ nhất, có thể ta muốn thử nghiệm giả thuyết rằng: 50% hoặc hơn các
báo cáo đã gửi không hề đợc đọc, vậy thu thập dữ liệu để tìm chúng có là
điên rồ không?
3. Định rõ các dữ liệu:
Đến bớc này hãy tự hỏi: Cần thông tin nào để giải đáp các câu hỏi
hay thử nghiệm các giả thuyết? Hoặc là loại thông tin có thể trực tiếp quan
sát, đếm, đo đợc nh số lợng nông dân dự trình diễn hoặc năng suất mùa
màng trên mỗi ha? Hay cần thông tin trừu tợng hóa trong suy nghĩ của nông
dân nh d luận, thái độ, động cơ hoặc trình độ thỏa mãn của họ với vấn đề?
Từng câu hỏi cần loại thông tin khác nhau, vì vậy phải thu thập đủ loại
thông tin cho một nội dung đánh giá và hãy liệt kê ra cho từng câu hỏi.
Khi đã có bảng liệt kê thông tin, phải tìm cách thu thập đợc thông tin
đó. Trong một số trờng hợp, chỉ là một việc đơn giản nh đo năng suất sữa
hoặc tính toán tiêu thụ nớc cần cho một tấn nông sản. Trờng hợp khác
không có cách gì khác hơn là đi hỏi hoặc phỏng vấn yêu cầu nông dân điền
vào một bảng thăm dò. Phơng pháp này đòi hỏi nhiều kinh nghiệm hơn,
nhiều kỹ thuật phức tạp hơn. Khi cha đạt đợc kinh nghiệm thì có lẽ tốt nhất
là mời chuyên gia giúp đỡ.
14
Hình 2.2: Chu kỳ đánh giá
(Chanoch Jacobsen, 1996) [18]
Còn một phơng pháp khác để thu thập dữ liệu là dùng biện pháp kín
đáo hoặc những chỉ báo gián tiếp của những thông tin cần có. Sau đây là ví
dụ của một cán bộ điều tra xã hội học nông thôn. Anh nghiên cứu viên này
muốn tìm ra những cơ sở của tác động qua lại về mặt xã hội trong một vùng
nông thôn bang Wicsconsia - Mỹ, hồi đầu thế kỷ này. Anh ta đo vết lún bánh
xe ở các giao lộ khác nhau hồi đó cha có đờng lát cứng mặt ở khu vực
trên. Vết lún càng sâu, lu lợng giao thông qua đó càng nhiều. Đó là một
chỉ báo gián tiếp đo tần số tơng đối của giao lu giữa các trung tâm buôn
bán.
Có nhiều cách thu thập dữ liệu: Đọc vài công trình về vấn đề quan tâm
đã đăng tải để xem ngời khác xử lý vấn đề ra sao. Bằng trí tởng tợng và
thông minh ta có thể phát triển những chỉ báo khác cho báo cáo. Song khi thực
hiện phải đảm bảo tính giá trị của các chỉ báo, nghĩa là chúng thực hiện sự chỉ
ra cái mà ta muốn đo đạc chứ không phải cái gì khác.
4. Thiết kế phân tích:
Đến bớc này, đã biết rõ vấn đề của ta là vấn đề gì, câu hỏi nào cần có
trả lời, thông tin nào cần có và tìm nó ở đâu, bằng cách nào? Và đến đây, phải
định ra phơng pháp xử lý dữ liệu khi đã thu thập đợc.
Vấn đề
Mục đích
Dữ liệu
Kết quả
Phân tích
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét