MỞ ĐẦU
Trường Sơn - Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu
Long.
Cư dân nói ngôn ngữ Mon - Khơmer ở Tây Bắc trước đây có tên chung là
người Xá. Nhưng đây không phải là một khối thống nhất mà bao gồm nhiều dân
tộc riêng biệt. Đó là các dân tộc: Kháng, Mảng, Xinhmun, khơ mú. Mảng là
những cư dân đã cư trú lâu đời ở Tây Bắc Việt Nam, một bộ phận của các dân
tộc này cư trú ở bên Lào. Ở Tây Bắc và miền núi Thanh - Nghệ có 5 dân tộc:
Khơ mú, Kháng, Mảng, Xinh mun, Ơ đu là những cư dân bản đại trên bán đảo
Đóng Dương, họ sống xen kẽ với người Thái và các dân tọco nói ngôn ngữ Tạng
- Miên. Quá trình cộng cư lâu đời này đã tạo nên một diện mạo văn hoá - Lịch
sử khác biệt với cư dân nói ngôn ngữ Môn - Khơmer ở Trường Sơn - Tây
Nguyên. Mới đây chúng tôi xin trình bày sơ lược 3 dân tộc : Kháng, Mảng, Xinh
Mun [2].
I. KHÁNG
(1) Tên tự gọi: Mơ Kháng
(2) Tên gọi khác: Háng, Brển, Xá Khao, Xá Xủa, Xá don, Xá dàng, Xá
hộc, Xá ái, Xá bung, QuảngLâm.
(3) Dân số: 3.921 người
(4) Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơmer (ngữ hệ
Nam Á) . Họ nói thạo tiếng Thái.
(5) Lịch sử: Dân tộc Kháng là cư dân cư trú lâu đời ở Tây Bắc Việt Nam.
Khi người Thái di cư từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc đến vùng này (từ thế kỉ
thứ VII đến thế khỉ XIV) đã thấy người Kháng cư trú ở đây. Đó là một dân tộc
nhỏ sống tản mát ở hầu khắp các châu. Hiện nay họ cư trú chủ yếu ở các huyện
Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La (Sơn La), Phong Thổ, Mường Lay,
Mường Tè (Lai Châu) với những tên gọi khác nhau.
1
(6) Hoạt động sản xuất: Nương rẫy là hình thái kinh tế chủ đạo với các
hình thức phát đồi, chọc lỗ tra hạt. Cũng có nơi đồng bào làm ruộng nước nhưng
phần lớn là ruộng xấu. Có thể phân thành 3 nhóm.
- Nhóm sống du canh du cư: làm rẫy.
- Nhóm du canh bán định cư: làm rẫy kết hợp làm ruộng.
- Nhóm định canh định cư: làm ruộng kết hợp làm rẫy. Tập quán trồng lúa
nếp kết hợp trồng ngô, khoai sắn, lạc, vừng, các loại bầu, bí, dứa, bông… Họ
canh tác chủ yếu bằng con dao, chiếc rùi sắt, gậy chọc lỗ, và đôi nơi dùng cuốc
hoặc cày. Đặc biệt cuốc là sử dụng của người Thái làm nương cuốc, sửdụng cày
Hơmông, học kĩ thuật cày bừa và phương thức canh tác lúa nước của người
Thái. Nhờ vậy đã kéo dài thời gian sử dụng đất, tạo ra năng suất lao động cao
hơn và có cuộc sống định cư [3].
* Chăn nuôi: Người Kháng nuôi gà, vịt, lợn để ăn thịt, tiếp khách, kết hợp
các dịp cúng bái, sử dụng trong cưới xin, ma chay. Đàn gia súc của đồng bào có
trâu, bò, ngựa… phục vụ cho sản xuất và vận tải [4].
* Săn bắn và hái lượm: Do chuyên sống bằng nương rẫy du canh du cư
nên đời sống đồng bào rất thấp. Săn bắn hái lượm là cộng việc hàng ngày của
đồng bào đóng vai trò hết sức quan trọng. Đi làm nương trở về đồng bào luôn
mang được thứ gì đó về góp vào bữa ăn. Săn bắn kết hợp với việc bảo vệ mùa
màng và kiếm thịt ăn để cải thiện đời sống. Đồng bào săn bắn theo 2 phương
thức: săn cá nhân và săn tập thể. Vũ khí săn bắn gồm có các loại : Bẫy, nỏ, súng
và tên thuốc độc. Đồng bào sử dụng các loại bầy khác nhau : bẫy phóng lao, bẫy
sập dùng mồi, hãm chông, lưới vây…
* Ngành nghề phụ: Để bù đắp vào phần thức ăn thiếu thốn đồng bào sống
dựa vào những thứ hái lượm đưcợ trong rừng. Đó là các loại cây có củ như : củ
mài, củ nâu, bột báng, các loại rau rừng như măng, nấm… để đổi lấy lúa gạo,
quần áo vải mặc… hay tìm bắt ếch, nhái, tôm cua ở khe suối.
Người Kháng giỏi nghề làm thuyền độc mộc đùa én. Làm thuyền để dùng,
vừa bán cho người Thái và các dân tộc khác. Đan lát cũng là một nghề khá nổi
2
tiếng của đồng bào có thể đan được những chiếc màm, chiếc ghế bằng mây, tre,
nứa rất đẹp được nhiều người ưa thích.
Người Kháng biết làm ruộng, dệt vải, đan chiếu, làm nón như người Thái
nên mức sinh hoạt tương đối cao hơn các ngành thuộc ngành Xá khác…
(7) Văn hoá, giáo dục.
* Chữ viết: Trong lịch sử, dân tộc Kháng chưa có chữ viết.
* Giáo dục: Từ lâu, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến sự nghiệp giáo
dục bằng cách đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, cử các cán bộ giáo viên
tình nguyện với mức trợ cấp lớn đã đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức và đội
ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số ở các cấp. Biểu hiện rất rõ về mặt này ở
nhiều chủ trương, đường lối với những chính sách ưu tiên như cộng thêm điểm
vào kết quả thi tuyển sinh, mở các trường nội trú, các trường dựbị đại học nhằm
mục đích tạo ra đội ngũ cán bộ tương đối toàn diện đáp ứng sự nghiệp phát triển
của các dân tộc và miền núi. Tuy vậy sự nghiệp giáo dục ở dân tộc Kháng phát
triển còn chậm, trẻ em ít đi học. Dân tộc Kháng mới có 5 người có trình độ Đại
học [4]
* Văn học nghệ thuật:
“Văn hoá dân gian của người Kháng khá phong phú, phản ánh đời sống
văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng trọt vùng núi với điều kiện hết sức khó
khăn [1].
(8) Xã hội:
* Quan hệ xã hội: Nằm trong sự quản lí của các mường Thái trước đây,
người Kháng không có tổ chức xã hội riêng. Chức dịch cao nhất trong bản là :
quan cai gần như Tạo bản người Thái. Trong các bản người Kháng đã có sự
phân hoá giàu nghèo.
Tiểu gia đình phụ quyền chiếm ưu thế trong bản. Bên cạnh đó cũng tồn tại
một số tàn dư của chế độ mẫu hệ : tục ở rể, vai trò ông cậu… Trưởng họ vẫn có
vai trò nhất định. Theo tập quán sau khi cưới chàng rể phải đến nhà bố vợ ở rể
có thời hạn. Thông thường từ 1 đến 3 năm. Trong thời gian ở rể con sinh ra lấy
họ mẹ, chỉ sau khi đến nhà chồng con cái mới lấy họ cha, có nơi vẫn lấy họ mẹ.
3
Hết thời hạn ở rể, nhà trai tổ chức lễ đón dâu trở về nhà, lúc này họ nhà gái phải
có trách nhiệm sắm cho con gái và con rể cùng cháu ngoại đủ mọi thứ cần thiết
cho một gia đình riêng.
* Cưới xin: Ngày xưa, việc lấy vợ, lấy chồng của người Kháng vừa tự do
vừa phải qua nhiều nghi thức. Sau bốn năm đêm tìm hiểu ngủ lại nhà người con
gái, nếu đôi trai gái ưng ý nhau thì tiến hành ăn hỏi và rất nhiều nghi thức mà
đôi trẻ và hai bên nhà trai nhà gái phải thực hiện. Sau 3 năm ở rể đôi vợ chồng
trẻ phải làm lễ ra mắt hai họ, nhà trai mới tổ chức đón dâu. Đây là lễ quan trọng
nhất.
* Ma chay: Người Kháng có tục chia của cho người chết gồm : chăn,
đệm, dao, bát, đĩa, hòm đựng quần áo, ống nước, giỏ xôi… và những gì khi còn
sống người quá cố thường dùng. Tất cả những lễ vật này được đặt phía trên đầu
mộ. Ở phía đầu mộ còn chôn một cái cột cao, trên đó buộc treo một hình con
chim bằng gỗ và một cái áo mà người chết thường mặc. Sau khi chôn xong về
đến nhà, anh em, bà con phải đứng dưới gầm sàn để ông cậu cắt mỗi người một
nhúm tóc bỏ vào bát nước lã đựng trứng hoặc cá sấy khô rồi đem vứt ở vệ
đường vào bãi tha ma để hồn người chết không về quấy rối con cháu, người
thân.
* Thờ cúng: Họ tin rằng con người có 5 hôn. Một hồn chính ở trên đầu và
4 hồn ở tứ chi. Khi chết, hồn chính biến thành ma lành phù hộ con cháu còn 4
hồn còn lại biến thành ma dữ hay quấy nhiễu vòi “ăn”. Người ta còn tin nhiều
loại ma khác như: ma suối, ma bản… Người Kháng thờ ma cả bố và cả mẹ. Việc
cúng bố mẹ được tiến hành 3 năm một lần. Đây là lễ vui nhất, gia đình thường
mời anh em, bà con trong bản tới dự bữa cơm, sau đó xoà, múa thâu đêm.
* Lễ tết: Người Kháng ăn Tết Nguyên đán, Tết Cơm mới và thực hiện các
nghi lễ liên quan đến nông nghiệp nương rẫy.
* Văn nghệ: Những làn điệu dân ca của người Kháng thường phản ánh
đời sống sinh hoạt hằng ngày. Nhiều người biết hát các bài hát, áng thơ của
người Thái, thuộc nhiều tục ngữ ca dao.[3]
(9) Sinh hoạt .
4
*Ăn uống, hút: Người Kháng lấy nguồn thức ăn từ trồng trọt, chăn nuôi
và săn bắn. Lương thực chính là gạo tẻ và gạo nếp. Đặc biệt đồng bào Kháng ăn
cơm nếp nhiều hơn cơm tẻ. Xôi không không chỉ có mặt trong bữa ăn hàng ngày
mà còn là lễ vật bắt buộc trong cúng lễ.
Đồng bào hay ăn các món nướng, luộc và rất thích ăn cay, ớt là thứ thức
ăn không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày. Họ cững thích ăn chua như
măng, rau rừng muối chua, kể cả thịt cũng được đem muối chua để dự trữ.
Trong đám cưới người Kháng nhà trai buộc phải đưa sang nhà gái 8 hoặc 12 ống
cá chua. Các món tiết canh, thịt lợn băm nhỏ trộn lẫn gia vị và ăn tái cũng được
ưa thích. Đồng bào nhuộm vàng, ăn trầu, hút thuốc lá, ăn đất nướng, uống rượu
cần, rượu chưng cất. Đặc biệt người Kháng có tục uống nước bằng mũi mà chỉ
đàn ông mới theo. Sau những buổi lao động mệt nhọc, nếu bữa ăn có thịt, cá,
nấm, măng, đồng bào thường giã muối, ớt, hành, tỏi, rau thơm rồi hoà với nước
(tránh không bỏ gừng) sau đó gạn lấy nước bỏ vào vỏ bầu rồi vừa ăn thịt vừa
nghiêng cái vỏ bầu đổ nước cay vào mũi. Họ cho rằng làm như vậy sẽ khỏi bị
mệt mỏi sau buổi lao động. Tục này phổ biến trước cách mạng sau chỉ thấy ở
người già.
* Y phục và trang sức:
Đồng bào Kháng có trang phục y như của người Thái. Nam giới mặc áo
xẻ ngực, cổ tròn đứng, 4 túi. Nữ giới đầu đội khăn Piêu, mặc áo cánh Thái có tay
và xẻ ngực. Nẹp áo cài 2 hàng khuy bạc hình bướm rất đẹp. Họ mặc váy kiểu xà
rông.
Phụ nữ Kháng từ em bé gái đến cụ già đều búi tóc trên đỉnh đầu, không có
sự phân biệt người có chồng hay chưa. Một số nơi, chị em búi tóc theo kiểu của
phụ nữ Thái Đen, ai có chồng thì búi tóc trên đỉnh đầu, chưa có chồng thì búi tóc
sau gáy. [2]
* Ở: Trước đây, người Kháng làm nương du canh du cư nên cư trú rất
phân tán. Mỗi bản thường có 5 - 7 nóc nhà, nhiều lắm là 10 đến 15 nóc. Bản của
họ không ổn định nhỏ bé, lập ngay trên sườn đồi, gần gũi với nguồn nước, theo
hệ thống mật tập, bao xung quanh là những đám nương rẫy. Bản làng dựng trên
5
một địa điểm nhất định từ 5 - 15 năm, sau đó họ lại phải chuyển cư đến một nơi
mới. Nhìn chung bản làng của họ chật chội, không có vườn tược để trồng rau,
cây ăn quả và các cây lưu niên khác. Nhà người Kháng có 3 gian không chái, có
nơi làm thêm 2 chái đầu hồi. Hiện nay người Kháng làm mái nhà mai rùa như
người Thái Đen.
* Cộng đồng làng, bản: Trước giải phóng, các dân tộc Kháng phải chịu
thần phục chúa đất phong kiến Thái. Các làng bản của họ bị phân tán trong lãnh
đại Thái và hầu như không có một bộ phận cư dân nào tập trung đông và xây
dựng được một đơn vị hành chính cấp trên bản. Họ phải chấp nhận sự bóc lột vô
hạn độ của chúa đất, phải làm lao dịch và cống nạp sản phẩm không định mức
và chịu sự khinh rẻ của người khác tộc. Quan hệ này chi phối sâu sắc đời sống
xã hội của họ.
Làng bản của người Kháng nằm rải rác trong lãnh đại Thái, có quan hệ
với nhau không phải bằng tổ chức hành chính mà bằng quan hệ dân tộc, quan hệ
huyết thống. Tuy nhiên, các dân tộc này vẫn được cư trú thành bản riêng, được
tự quản và được cử người có uy tín làm đại diện, cũng có khi người này do
chính giai cấp thống trị Thái cử ra để dễ sai khiến. [2]
Những người này không bị bọn phong kiến Thái bóc lột bằng lao dịch hay
cống nạp. Trái lại, họ được giành cho một số đặc quyền như : Bấưt dân làm
nương, phục dịch, hầu hạ, đôi khi còn được bóc lột người đồng tộc bằng biếu
xén. Nhiệm vụ lớn nhất của người đứng đầu bản là đôn đốc dân bản làm cuông,
nhốc, đi phu và đóng gõp cho gi phìa tạo,ông ta có quyền xét xử, dàn hoà những
xích mích cơ bản.
* Phương tiện vận chuyển: Phổ biến dùng gùi, có dây đeo qua trán thuyền
đuôi én.
6
II. MẢNG
(1) Tên tự gọi: Mảng
(2) Tên gọi khác: Mảng Ư, Xá Mảng, Niếng O, Xá Bá O.
(3) Nhóm địa phương: Mảng Gứng, Mảng Lệ.
(4) Dân số : 2247 người
(5) Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme (ngữ hệ
Nam - Á) nhiều người Mảng biết tiếng Thái.
(6) Lịch sử: Xưa nay vùng nặm ban (Dun Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện
Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu vẫn được coi là “quê hương” của người Mảng. Nhiều
truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể
nhận ra người Mảng là một trong những cư dân bản địa ở vùng Tây Bắc nước
ta.
(7) Hoạt động sản xuất.
* Trồng trọt: Người Mảng là cư dân “ăn nương” chuyên sống bằng nông
nghiệp nương rẫy theo lối sống du canh du cư. Việc chọn nương, đánh dấu sở
hữu được tiến hành từ sau Tết. Tháng 3-4 phát cỏ, để khô, nỏ ; tháng 5 - 6 đất
rồi gieo hạt. Công cụ làm nương có rìu, dao, gậy chọc lỗ. Năng suất lúa thường
thấp do đất đai cằn cỗi, rừng non, đời sống bấp bênh, thiếu ăn quanh năm. Mấy
năm gần đây họ đã biết làm nương cuốc; mật số nơi làm ruộng bậc thang, năng
suất lúa ổn định hơn. [3]
*Chăn nuôi: Người Mảng nuôi gà, vịt, lợn để ăn thịt, tiếp khách, kết hợp
các dịp cúng bái, sửdụng trong cưới xin, ma chay - đàn gia súc của đồng bào có
trâu, bò, ngựa… phục vụ cho sản xuất và vận tải. Nghề này ít phát triển vì thiếu
lương thực.
* Săn bắn và hái lượm: Do chuyên sống bằng nương rẫy du canh du cư
nên đời sống đồng bào rất thấp. Săn bắn, hái lượm là công việc hàng ngày của
đồng bào luôn mang được thứ gì đó về góp vào bữa ăn, săn bắn kết hợp với việc
bảo vệ mùa màng và kiếm thịt ăn để cải thiện đời sống. Đồng bào săn bắn theo 2
phương thức: săn cá nhân và săn tập thể. Vũ khí săn bắn gồm có các loại bẫy,
7
nó, súng và tên thuốc độc. Đồng bào sử dụng các loại bẫy khác nhau : bẫy
phóng lao, bẫy sập dùng mồi, hầm chông, lưới vảy…
* Ngành nghề thủ công: Chưa phát triển. Nhiều sản phẩm đan lát của
người Mảng như bem, cát, gùi rất được các dân tộc khác ưa chuộng.
(8) Văn hoá, giáo dục:
* Chữ viết: Người Mảng chưa có chữ viết của dân tộc mình.
* Giáo dục: Sự nghiệp giáo dục kém phát triển. Mặc dù Đảng và Nhà
nước đã có chủ trương quan tâm đến việc đào tạo ra đội ngũ cán bộ và trí thức
và đã đạt được một số kết quả nhất định. Song đến này dân tộc Mảng vẫn chưa
có người nào đạt trình độ Đại học. Do đó Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm
hơn nữa.
* Văn học, nghệ thuật: Người Mảng đã xây dựng được một nền Văn học
nghệ thuật dân gian độc đáo trong các dịp cưới xin làm nhà mới, ngày tết, sau
thu hoạch lúa nương hay sau lễ gieo hạt đầu xuân đều là dịp tổ chức vui chơi
chung. Hát đối đáp tập thể bên trai, bên gái thường được mọi người ưa thích.
Các cụ già thường thích nghe sử thi, trong đó nổi tiếng nhất là sử thi Soỏng
muẳng (chia đất). Phương thức văn nghệ con trai đệm đàn, sáo cho con gái hát,
thường dành cho các đôi nam nữ đang “ướm lòng” nhau. Các nhạc cụ : trống,
chiếng, đàn một dây, sáo, khèn… là những nhạc cụ được sử dụng khá phổ biến.
[1]
(9) Xã hội:
* Quan hệ xã hội: Người đứng đầu tổ chức xã hội truyền thống là Pơgia.
Ông ta trong Hội đồng các trưởng họ điều khiển hoạt động văn hoá tôn giáo, xã
hội trong bản.Về sau tổ chức và xã hội này bị phá vỡ, chịu sự chi phối của các tổ
chức xã hội Thái. Tuy nhiên tổ chức bản (Muy) vẫn duy trì theo tập quán truyền
thống. Bản có trưởng bản trông coi về thu thuế. Trong bản thường có một dòng
họ lớn, các trưởng bản cùng với hội đồng già làng điều hành mọi hoạt động xã
hội tôn giáo theo tập quán. Người Mảng có năm họ gốc và mỗi dòng họ cư trú ở
nơi nhất định. Hiện nay tuy không quy tụ một nơi những mỗi dòng họ đều thấy
8
mình có liên quan đến một nguồn gốc thần thoại và một điều kiện nhất định, họ
lấy một con vật làm tổ [4].
* Ma chay: Tang lễ của người Mảng gồm nhiều nghi thức phức tạp, từ
khâm niệm cho đến khi chôn cất. Xưa, quan tài chủ yếu dùng vỏ cây hoặc được
ghép. Sau này, người ta dùng thân cây khoét rỗng hay dùng hòm ván gỗ . [4]
* Hôn nhân: Trai gái Mảng được tự do yêu đương và kết hôn. Vào dịp tết,
người mối thay mặt nhà trai đến nhà gái dạm hỏi sau vài ba lần đi lại, chàng trai
đến nhà gái ở rể và tổ chức lễ cưới. Trong đám cưới, ngoài phí tổn về ăn uống,
nhà trai phải trao cho nhà gái tiền “lọ chạ” hay “chang hạ” là tiền bù cho công
lao động của một thành viên đi sang gia đình khác. Trong đám cưới, có tục đánh
nhau giả giữa họ nhà trai và họ nhà gái để giành cô dâu ; [1]
* Gia đình: Tiểu gia đình phụ quyền là đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội.
Đứng đầu gia đình là người bố, người chồng, hay con trai trưởng Khi bố chết).
Những người đàn ông quyết định mọi công việc của gia đình. Quyền thừa kế
thuộc về con trai và con trai trưởng được quyền nhiều hơn. Đại gia đình thường
bao gồm 3 thế hệ cùng trực hệ. Đặc điểm gia đình lớn của họ là các anh em trai
có vợ, có con nhưng vẫn ở chung với nhau, kể cà con gái đã lấy chồng ở rể, số
lượng thành viên trong gia đình có từ 10 -30 người, cùng sinh hoạt chung dưới
sự điều khiển của chủ gia đình. Mỗi gia đình lớn phát triển đến mức độ nào đó
sẽ bị chia nhỏ ra.
Sau ngày giải phóng sự thống nhất kinh tế trong gia đình không còn trọn
vẹn, các gia đình nhỏ đã xuất hiện tỏng gia đình lớn. Tuy sống trong một mái
nhà nhưng họ đã có tài sản riêng, sản xuất riêng, ăn riêng. Hình thái gia đình lớn
của người Mảng đang ở giai đoạn tan rã.
* Tín ngưỡng: ở người Mảng, trời (Mon ten, Mon ong) là đấng sáng tạo,
là vị thần cao nhất. Mon ten có thể làm ra người, rồi thả họ xuống đất. Mon ten
sai hai anh em là ái Hủi và ái Hềnh xuống trần gian làm ra cây cối, muôn vật,
dạy người biết làm ăn sinh sống. Hai anh em ái Hủi, ái Hềnh đã đào sông Đà và
Nặm Na cho loài người. Đến khi trời hạn không có nước, hai anh em xui trời
làm ra mưa cho loài người.
9
Quan niệm về vũ trụ của người Mảng cũng khá đặc biệt. Trên trời là thế
giới của thần linh sáng tạo Mon Phỉnh, ở mặt đất là thế giới của người và ma
Mon Lon; đi sâu trong lòng đất là thế giới của những người quái dị, vừa xấu,
vừa hèn Mon Lo ở dưới nước là thế giới của thuồng Mon Chang. ThuồngLuồng
có thể biến thành những chàng trai tuấn tú, những cô gái xinh đẹp, và tắm ở các
bến sống.
Người Mảng quan niệm có rất nhiều ma : ma dòng họ, ma nhà, ma bến
nước, ma mặt trời, ma mặt trăng. Các loại ma này phù hộ cho người nếu ứng xử
tốt với chúng, nếu trái lại chúng sẽ gây tác hại.
Trong các hình thái tôn giáo của người Mảng, các lễ nghi trong nông
nghiệp liên quan đến hồn lúa khá phức tạp và đặc biệt vào các dịp thu hoạch đến
hàng năm, người phụ nữ có vị trí to lớn, thể hiện trong vai trò “mẹ lúa” [1]
(10) Sinh hoạt:
* Nhà: Bản của người Mảng được xây dựng trên các sườn đồi hay tại bãi
bằng trên đỉnh đồi, gần nguồn nước. Mỗi bản có 2-3 chục nóc nhà. Tên bản
thường đặt theo tên suối, tên núi… Bản của dân tộc Mảng dựng xen kẽ với bản
của dân tộc Mông, dân tộc Thái.[1]
Mặc dù nàh người Mảng rất tạm bợ, nhưng từ khâu chọn đất, san nền,
dựng cột cho đến lợp đều phải nhờ thầy bói xem ngày, giờ rồi mới tiến hành
dựng nhà. Lễ mừng nhà mới là ngày vui của cả bản. Lễ này gồm nhiều đặc trưng
nghi thức phức tạp thể hiện đặc trưng tộc người.
“Riêng nhà kiểu xưa của người Mảng không có chái ở hai đầu hồi. Nó chỉ
gồm 2 mái lớn hình chữ nhật, 2 đầu hồi có các pưởng nhựa làm hơi vếch lên như
2 đầu rồng cách điệu, một mô típ truyền thống của cư dân Nam Á. [2]
Người Mảng còn dấu vết của đại gia đình, vì vậy qui mô mặt bằng nhà ở
phụ thuộc vào số lượng của các gia đình nhỏ. Mỗi nhà có nhiều buồng dành cho
các gia đình tế bào. Giữa nhà dọc theo chiều dài có hành lang thông từ đầu nàh
đến cuối nhà. Cửa ra vào ở 2 đầu nhà, cửa chính cho nam giới, cửa phụ cho nữ
giới. Buồng ngăn của các gia đình nhỏ được bố trí 2 bên hành lang, mỗi buồng
chiếm nửa gian và có bếp riêng. Hai buồng chia gian đầu và cửa chính, nơi ra
10
vào của nam giới là buồng khách và buồng của chủ nhà, tiếp theo là buồng của
các con trái và con gái [3].
* Lễ tết: Ngoài tế Nguyên đán ra, người Mảng ăn tết Cơm mới sau vụ gặt
tháng 10 âm lịch. Hằng năm, dânbản còn cúng ma bản và ma nhà để cầu yên.
Đặc biệt ở họ tồn tại hàng loạt nghi lễ liên quan đến nông nghiệp : lễ gieo
nương, cúng hồn lúa, mẹ lúa, cúng sau vụ thu hoạch. [3]
* Thờ cúng: Ma nhà được cúng vào dịp tết hoặc trong khi nhà có người
đau ốm. Trời là đáng sáng tạo tối cao, ở đâycó cả truyền thuyết về sự xuất hiện
loài người theo mô típ truyện quả bầu. Người ta quan niệm vũ trụ có 4 tầng :
trên trời là thế giới thanà lính sáng tạo, mặt đất là thế giới người và các loài ma,
dưới đất là người lùn xấu xí và dưới nước là thế giới thuồng luồng. Người Mảng
tin có nhiều ma, trong đó mà nhà có vị trí đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó họ
cũng thờ ma Đẳm - Tổ tiên, dòng họ.
* Văn nghệ: Làn điệu dân ca oxoỏng được nhiều người biết và ưa thích.
Các truyện dã sử, truyện kể về lịch sử dân tộc thường được người già kể say sưa.
* Chời: Vào các dịp lễ, tết, trẻ em chơi cầu lông, đánh quay Thanh niên có
nơi chơi ném còn. [3]
* Y phục và trang sức: Trước đây, ngườiMảng chỉ biết dệt vải trên khung
cửi thô sơ, sản xuất ra loại vải thô, dày để may túi và khố cho nam giới. Đồng
bào chưa biết dệt loại vải may quần áo nên thường đem sản phẩm của mình trao
đổi với người Thái để lấy vải vóc, quần áo, vì thế lên vùng Tây Bắc và Tây Nam
vào những bản của người Mảng ta thấy đồng bào có trang phục y như của người
Thái. Nam giới mặc áo xẻ ngực, cổ tròn đứng, 4 túi. Nữ giới đầu đội khăn piêu,
mặc áo cánh Thái có tay và xẻ ngực. Nẹp áo có 2 hàng khuy bạc hình bướm rất
đẹp. Họ mặc váy kiểu xả rông.
* Cộng đồng làng, bản:
Trước giải phóng cũng như người Kháng, dân tộc Mảng phải chịu thần
phục chúa đất phong kiến Thái. Các bản làng của họ bị phân tán trong lãnh địa
Thái và hầu như không có mộtbộ phận cư dân nào tập trung đông và xây dựng
được một đơn vị hành chính cấp trên bản.
11
Người Mảng có tổ chức tự quản là hội đồng già làng, bao gồm những
người gia am hiểu phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo để bàn bạc mọi công việc
trong bản. Bản của họ bao gồm những gia đình thuộc các dòng họ khác nhau,
trong đó dòng họ chiếm số đông là dòng họcó công khai khẩn lập làng. Những
thành viên trong bản được toàn quyền sử dụng đất đai, rừng nước trong phạm vi
của bản mình. Ở đây không có quyền sở hữu tập thể về nguyên tắc đất đai thuộc
quyền sở hữu của chúa đất [2]
* Phương tiện vận chuyển: Phổ biến dùng gùi, có dây đeo qua trán, sau
gáy có ách.
12
III. XINH - MUN
(11) Tên tự gọi: Sinh Mun
(12) Tên gọi khác: Duộc, Xá, Dụa
(13) Nhóm địa phương : XinhMun Dạ, Xinh mun Nghẹt.
(14) Dân số: 10.890 người
(15) Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơmer (Ngữ Nam
Á).Người Xinh Mun giỏi tiếng Thái.
(16) Lịch sử : Người Xinh Mun đã cùng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc
Việt Nam [3].
(17) Hoạt động sản xuất .
* Trồng trọt: Trồng trên nương rẫy là nghề làm ăn chủ yếu của đồng bào
dân tộc Xinh Mun. Cây trồng chính là lúa (nếp, tẻ) và ngô. Nương có 3 loại :
Nương dùng gậy chọc lỗ, nương dùng cuốc, nương dùng cày. Một vài nơi làm
ruộng nước là chính. Người Xin Mun sử dụng cuốc của người Thái làm nương
cuốc, sử dụng cày Hmông học kĩ thuật cày bừa và phương thức canh tác lúa
nước của người Thái. Nhờ vậy đã kéo dài thời gian sử dụng đất, tạo ra năng suất
lao động cao hơn và có cuộc sống ổn định.
* Chăn nuôi: Đồng bảo chăn nuôi trâu, bò, lợn, dê, gà… để sử dụng trong
các dịp nghi lễ tín ngưỡng và cung cấp một phần cho đời sống và sản xuất. Đồng
bào còn nuôi cá ở ao.[1]
* Hái lượm và săn bắn : Có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của
đồng bào. Hái lượm góp phần chủ cung cấp thức ăn hàng ngày. Săn bắn chủ yếu
nhằm mục đích bảo vệ mùa màng, kết hợp kiếm thịt thú để ăn.[1]
* Ngành nghề thủ công: Các ngành nghề thủ công nhìn chung ít phát
triển. Phổ biến hơn cả là nghề đan lát các thứ đồ gia dụng. Một vài bản có nghề
rèn ; một vài nơi đồng bào làm nghề dệt.
(18) Văn hoá, giáo dục:
* Chữ viết: Người Xinh Mun chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình.
* Giáo dục: Người Xin Mun ở miền Tây Bắc là dân tộc có dân số ít, chủ
yếu phân bố ở vùng cao, kinhtế kém phát triển, họ chỉ có cán bộ ở thôn, xã, chưa
13
có cán bộ ở cấp huyện. Dân tộc Xin Mun chỉ có một người có trình độ Đại học.
[4]
* Văn học, nghệ thuật: Trong dân gian hiện nay, đồng bào chỉ còn nhớ
những truyện cổ qua sách của người Thái. Đó là những truyện về nguồn gốc loài
người, về sự phân chia trời và đất[1]
(19) Xã hội:
* Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ, phụ quiyền là chủ yếu, nhưng những đại
gia đình gồm ba thế hệ hay các anh em trai đã có vợ vẫn sống chung trong một
nhà còn tồn tại khá đậm nét. Số lượng thành viên trong nhà còn tồn tại khá đậm
nét. Số lượng thành viên trong nhà khoảng 10 - 15 người, cũng có nhà lên tới 20
- 30 người.
Người Xinh Mun có nhiều họ nhưng hiện nay đều mang họ Thái như các
họ vi, Lò giống như người Thái, mỗi họ trên đều kiêng giết ăn thịt một số động
vật hay thực vật nhất định. [2]
* Cưới xin: Hôn nhân của đồng bào là hôn nhân một vợ một chồng. Phổ
biến tục ở rể. Trước đây, con trai phải ở rể khoảng 8 đến 12 năm hoặc ở rể suốt
đời nếu bên vợ không có con trai. Trong lễ cưới đi ở rể, cô dâu, chú rể phải đổi
tên của mình để lấy một tên mới chung cho cả hai người. Tên chung này do bố
mẹ vợ, ông cậu đặt cho, đôi khi lại phải bói xin âm dương để tìm tên chung. Cô
dâu búi tóc ngược lên đỉnh đầu biểu hiện là người con gái đã có chồng. Ngay
trong hôm cưới đi ở rể, đôi vợ chồng mới cưới trở về nhà trai 2- 3 ngày rồi mới
sang ở hẳn nhà gái cho đến hết thời gian ở rể [3]. Trong lễ đón dâu, khi đoàn nhà
tra và dâu về, nhà gái lấy nhọ nồi bôi ba vệt đen lên mặtcon rể và nhà trai cũng
bôi vào mặt cô dâu như vậy. Sau đó nhà trai và nhà gái lấy trấu ở những hũ rượu
cần đã uống hết để ném nhau trong vài hút [1]. Lễ cưới đưa dâu về nhà trai tổ
chức sau khi hết thời gian ở rể, lúc đó đôi vợ chồng đã có một hoặc vài con. Lễ
lại mặt tổ chức sau đó vài ngày, hay một năm.
10: Sinh hoạt:
* Sinh đẻ: Phụ nữ có mang vẫn đi nương đi rừng cho đến tận ngày sinh.
Sản phục đẻ ngồi, cạnh bếp nấu cơm, ngay trong nhà. Mẹ chồng, chồng hay một
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét