Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Thực trạng đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp quốc doanh ở ngân hàng công thương hoàn kiếm

giá trị thể hiện bằng tiền hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác
với những điều kiện ràng buộc nhất định về thời hạn hoàn trả (cả gốc và
lãi), lãi suất, cách thức vay mợn và thu hồi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng với cá nhân, tổ chức kinh tế khác.
b. Phân loại tín dụng.
Tín dụng có thể đợc phân thành nhiều loại khác nhau theo các
tiêu thức khác nhau.
Theo thời hạn sử dụng tín dụng đợc phân thành ba loại:
+ Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một
năm. Tín dụng này đợc sử dụng để tài trợ cho sự thiếu hụt vốn tạm thời
nh để dữ trữ hàng hoá, tài trợ cho các chi phí sản xuất kinh doanh phát
sinh và bằng tiền mặt: Tiền lơng công nhân viên, tiền điện nớc v.v Để
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, nhiều khi còn đợc doanh nghiệp tài
trợ tạm thời cho vốn đầu t dài hạn khi có nguồn bảo đảm chi trả trong
ngắn hạn. Đối với mỗi hộ gia đình, tín dụng ngắn hạn đợc sử dụng để
mua sắm đồ dùng phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn có thời hạn từ một năm đến 10 năm, các
khoản tín dụng này đợc sử dụng để mua sắm trang thiết bị là tài sản cố
định có thời gian sử dụng lâu dài, để đầu t xây dựng các công trình có
thời hạn thu hồi vốn dới 10 năm.
+ Tín dụng dài hạn, có thời hạn trên 10 năm, thờng đợc sử dụng
để tài trợ cho quá trình đầu t xây dựng các công trình lớn, có thời gian
thu hồi vốn dài.
Theo ngành kinh tế, tín dụng đợc phân thành tín dụng cấp cho
ngành công nghiệp, tín dụng cấp cho ngành thơng nghiệp dịch vụ, ngành
nông nghiệp
5
Theo thành phần kinh tế tín dụng đợc phân thành tín dụng cấp
cho khu vực kinh tế quốc doanh, và tín dụng cấp cho khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh.
Theo kỹ thuật cung cấp, tín dụng đợc phân thành:
+ Tín dụng chiết khấu. Tín dụng chiết khấu là hình thức tín dụng
qua đó ngời vay vốn đem các loại trái phiếu, thơng phiếu, giấy nhận nợ,
hoá đơn cha thanh toán đến ngân hàng để làm vật cầm cố cho một
khoản vay. Khoản vốn vay này bằng mệnh giá của giấy nợ trừ đi phần lãi
chiết khấu và hoa hồng chiết khấu. Ngân hàng sau khi đã cung cấp vốn
cho khách hàng có quyền giữ các loại giấy nợ đó và có quyền thu hồi nợ
khi đến hạn nếu khách hàng vẫn cha hoàn trả tiền vay. Hình thức tín
dụng này rất phù hợp với nền kinh tế hiện đại khi thanh toán chậm trả,
thanh toán không dùng tiền mặt phát triển mạnh.
+ Thấu chi. Thấu chi là một hình thức tín dụng trong đó khách
hàng là chủ tài khoản ở ngân hàng đợc phép chi vợt trội số d có của tài
khoản mình ở một mức nhất định, hay nói cách khác tài khoản khách
hàng đợc phép d nợ. Loại tín dụng này rất thích hợp cho các khách hàng
thờng có các khoản chi bất thờng.
+ Tín dụng thời vụ: là tín dụng cấp cho khách hàng khi nhu cầu
vốn của họ lớn do đến thời vụ sản xuất.
Thời vụ sản xuất ở doanh nghiệp có thể là thời vụ đầu vào hoặc
thời vụ đầu ra. Các công ty sản xuất đờng, cà phê, các công ty thu mua
sản phẩm nông nghiệp thờng phải vay vốn theo thời vụ để mua mía, cà
phê, sản nông nghiệp để dữ trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh trong
năm.
+ Tín dụng thuê mua: tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng,
khi cấp cho khách hàng, kèm theo các điều kiện thuê hoặc mua một loại
tài sản nào đó. ở các ngân hàng thờng hay có các tài sản thế chấp thu hồi
từ những khách hàng mất khả năng thanh toán. Khi bán tài sản này, ngân
6
hàng có thể cung cấp tín dụng thuê mua cho khách hàng. Đây nh là một
hình thức bán chịu sau khách hàng phải trả lãi suất cho ngân hàng và khi
khách hàng mất khả năng thanh toán, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản
này.
+Tín dụng uỷ nhiệm thu.
Tín dụng uỷ nhiệm thu là hình thức tín dụng mà ngân hàng dành
lấy quyền đòi các khoản nợ của khách hàng khi cho khách hàng vay vốn.
Theo hợp đồng, nếu sau này các con nợ không có khả năng thanh toán,
ngân hàng có quyền quay lại đòi nợ khách hàng hay không có quyền đòi
nợ khách hàng. Hình thức tín dụng này có chi phí lớn, là tổng của chi phí
hoa hồng cho vay uỷ nhiệm thu và tiền lãi tính trên vốn cung cấp cho
khách hàng. Song khi sử dụng tín dụng này, khách hàng đã tiết kiệm đợc
chi phí theo dõi, thu hồi nợ khê đọng, còn ngân hàng thì chịu mức rủi ro
cao hơn.
+Tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng tiêu dùng là tín dụng cung cấp cho cá nhân, hộ gia đình
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân nh mua nhà, mua xe hay các vật
dụng khác. Loại tín dụng này thờng là tín dụng ngắn hạn gắn liền với
việc mua sắm tiêu dùng của khách hàng. Và nếu là tín dụng trung, dài
hạn thì hình thức trả nợ là trả theo chuỗi niên khoản.
+Tín dụng bảo lãnh.
Có thể nói đây là một dịch vụ của ngân hàng vì ngân hàng không
trực tiếp xuất quỹ cho khách hàng sử dụng mà chỉ đa ra các cam kết bảo
lãnh cho các khoản nợ của khách hàng, tạo điều kiện cho các khách hàng
vay vốn ở đối tác thứ ba. Ngân hàng cam kết sẽ trả thay các khoản nợ
cho khách hàng nếu khách hàng mất khả năng thanh toán.
Theo phơng thức thanh toán tín dụng có thể đợc chia thành tín
dụng hoàn trả một lần, tín dụng trả góp, cho vay luân chuyển Trong đó
7
cho vay luân chuyển rất thích hợp với các doanh nghiệp có các khoản chi
phí và thu nhập không ổn định.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tín dụng ngân hàng xuất
hiện ngày càng nhiều loại khác nhau phù hợp với các hình thức thanh
toán trong nền kinh tế hiện đại, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày
càng cao của nền kinh tế.
c. Sự tồn tại khách quan của tín dụng.
Trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại nhu cầu đi vay và cho vay
vốn. Các doanh nghiệp, cá nhân có những khoản tiền nhàn rỗi luôn có
mong muốn cho vay để hởng lãi các doanh nghiệp, cá nhân có cơ hội
đầu t hay nhu cầu tiêu dùng mà không có tiền sẽ cố gắng tìm vay những
khoản tiền của ngời có cho vay. Đối với ngời đi vay, họ luôn sẵn sàng
chi trả một khoản chi phí để có đợc quyền sử dụng vốn để đầu t vào mục
đích của họ với hi vọng khoản lợi thu đợc sẽ lớn hơn phần chi phí phải
bỏ ra. Hai nhu cầu vay và cho vay này gặp nhau sẽ phát sinh quan hệ tín
dụng.
Tuy nhiên ngời có tiền và ngời có nhu cầu vay tiền sẽ không thể
tìm gặp nhau trên thị trờng. Sự gặp nhau giữa hai nhu cầu này phải thông
qua ngời thứ ba với t cách là ngời trung gian, đó là ngân hàng và tổ chức
tín dụng.
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đứng ra nhận các khoản tiền
gửi dới nhiều hình thức khác nhau, chi trả các khoản lãi cho khách hàng
và tìm cơ hội đầu t, cho vay. Ngân hàng cũng là ngời thu đợc lợi do lãi
thu từ các khoản cho vay lớn hơn chi phí huy động vốn và chi phí phát
sinh khác. Nh vậy qua nghiệp vụ này, có ít nhất ba ngời có lợi: ngời cho
vay, ngòi đi vay và ngân hàng.
Nh vậy, tín dụng tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế
do nhu cầu cho mợn và vay mợn tiền luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế.
Tín dụng không những mang lợi lại cho các bên tham gia mà còn có lợi
8
cho toàn bộ xã hội nói chung khi nó tạo điều kiện cho quá trình lu thông
vốn giữa các cá nhân, các ngành, nó đáp ứng đợc nhu cầu đầu t, nhu cầu
tiêu dùng, khuyến khích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm xã hội và đem lại
sự tăng trởng cho nền kinh tế.
2. Tín dụng đối với nền kinh tế thị trờng.
Tín dụng ngân hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho toàn bộ
nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các ngành công nghiệp, thơng
nghiệp, nông nghiệp nó tạo ra khả năng tiêu dùng cho dân c, khuyến
khích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm từ đó tạo nên sự tăng trởng mạnh mẽ
cho nền kinh tế.
Trong các ngành sản xuất kinh doanh, từ khâu sản xuất, lu thông
đến tiêu dùng đều có sự tham gia của tín dụng:
Trong sản xuất, tín dụng tài trợ cho qua trình đầu t xây dựng các
nhà máy công xởng, mua sắm máy móc trang thiết bị cho sản xuất, tín
dụng tài trợ cho các chi phí sản xuất kinh doanh nh dự trữ nguyên vật
liệu cho sản xuất, tiền lơng, tiền công là những đầu vào không thể
thiếu cho quá trình sản xuất. Tín dụng không những duy trì khả năng sản
xuất cho các doanh nghiệp mà còn thúc đẩy quá trình sản xuất nhanh
chóng nhờ sự tài trợ cho đầu t xây dựng, mua sắm trang thiết bị mới, đổi
mới công nghệ.
Trong lu thông hàng hoá, tín dụng tài trợ cho việc xây dựng kho
tàng bến bãi mua sắm phơng tiện lu thông tài trợ cho lợng dự trữ hàng
hoá và các khoản chí phí khác phát sinh trong quá trình kinh doanh.
Trong tiêu dùng nhờ các khoản tín dụng mà mong muốn mua
sắm của ngời tiêu dùng trở thành nhu cầu thực sự, tín dụng tạo ra khả
năng chi trả cho ngời tiêu dùng.
Nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu vốn cho sản
xuất, tiêu dùng ngày càng cao do vậy vai trò của tín dụng ngân hàng cho
sự phát triển kinh tế xã hội rất to lớn.
9
Đối với nền kinh tế nớc ta trong thời kỳ bao cấp, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh là các doanh nghiệp nhà nớc và các hợp tác
xã đợc nhà nớc bao cấp toàn bộ vốn cho sản xuất kinh doanh, nhà nớc
chỉ định nguồn mua nguyên vật liệu, bao tiêu sản phẩm và bù lỗ khi làm
ăn không hiệu quả do đó quan hệ tín dụng đã mất đi tính thực chất của
nó.
Bớc sang nền kinh tế thị trờng, nhà nớc xoá bỏ bao cấp, các
doanh nghiệp tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động sản
xuất của mình. Với các khoản vốn ban đầu do nhà nớc cấp, doanh
nghiệp, phải tự tìm kiếm các nguồn vốn để tài trợ cho chi phí. Điều này
buộc họ phải tự tìm đến ngân hàng để vay vốn.
Không chỉ đối với các doanh nghiệp nhà nớc mà tất cả các thành
phần kinh tế khác, vốn tự có không thể tài trợ đầy đủ cho chí phí sản
xuất. Họ luôn luôn ở trong tình trạng thừa hoặc thiếu vốn, hay nói cách
khác luôn có nhu cầu đi vay và cho vay.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp, công ty có thể có thể huy động
nhiều vốn từ nhiều nguồn khác nhau thông qua thị trờng vốn. Nhng chỉ
các doanh nghiệp, công ty lớn làm ăn hiệu quả, có uy tín trên thị trờng
mới có thể huy động đợc vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
ở nớc ta các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn, hơn
nữa thị trờng tài chính cha phát triển, thị trờng cổ phiếu cha hoạt động
thực sự cho nên sẽ rất khó khăn trong việc huy động vốn bằng cách phát
hành cổ phiếu, trái phiếu và chi phí huy động vốn sẽ rất cao nên nguồn
vốn vay ngân hàng đang là nguồn vốn duy nhất ngoài vốn tự có tài trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng không những tài trợ cho hoạt động của các
doanh nghiệp mà là còn tài trợ cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, là
cơ sở vật chất tạo ra động lực cho sự tăng trởng kinh tế, phát triển xã hội.
10
Đối với nớc ta hiện nay cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu thiếu thốn, nhu cầu
vốn cho đầu t xây lắp sửa chữa rất lớn.
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trờng luôn xuất hiện sự phân cách
giữa ngời giàu và ngời nghèo, tín dụng ngân hàng có thể tạo nên sự công
bằng cho xã hội thông qua việc cho vay đối với những hộ gia đình có
khó khăn trong kinh tế với mức lãi suất hợp lý, giúp họ có đợc khả năng
sản xuất, tạo ra thu nhập.
II. Tín dụng ngân hàng đối với các doanh
nghiệp nhà nớc.
1. Doanh nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng.
Thực tiễn trên thế giới, nền kinh tế hàng hoá của bất kì một nớc
nào cũng đều cần có sự quản lý của nhà nớc, dù đó là nớc phát triển,
đang phát triển hay kém phát triển, dù đó là nớc xã hội chủ nghĩa hay n-
ớc t bản chủ nghĩa, vấn đề khác nhau chỉ là ở chỗ mức độ và hình thức
can thiệp. Vai trò diều tiết , đem lại sự cân bằng cho nền kinh tế của nhà
nớc là không thể thiếu. Nhà nớc có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng
nhiều công cụ vĩ mô khác nhau, trong đó phải kể đến công cụ vật chất
của khu vực kinh tế nhà nớc bao gồm nhiều công ty độc quyền nhà nớc,
chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà nhà nớc đầu t 100%
vốn hay chiếm giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông qua chế độ tham dự.
a. Định nghĩa doanh nghiệp nhà nớc
Doanh nghiệp nhà nớc là một tổ chức kinh doanh, do nhà nớc
thành lập đầu t vốn và quản lý với t cách là chủ sở hữu, đồng thời là một
pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trớc pháp luật.
Ngoài doanh nghiệp 100% vốn đầu t của nhà nớc còn có các
doanh nghiệp cổ phần, trong đó nhà nớc chiếm nột tỷ lệ vốn cao, đủ để
chi phối hoạt động của nó khi cần thiết.
b. Vai trò của doanh nghiệp nhà nớc.
11
Doanh nghiệp nhà nớc, ngoài vai trò tạo ra sản phẩm xã hội,
nguồn thu của ngân sách,còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
nhà nớc. Vai trò của doanh nghiệp nhà nớc gắn liền với vai trò điều tiết
vĩ mô nền kinh tế của nhà nớc.
Thứ nhất doanh nghiệp nhà nớc là đơn vị tạo ra sản phẩm xã
hội. Cung cấp sản phẩm dịch vụ ,đáp ứng nhu cầu xã hội là vai trò của
bất kỳ một doạnh nghiệp nào.Với cơ sở vật chất, nguồn nhân lực của
mình, doanh nghiệp nhà nớc cũng tiến hành sản xuất kinh doanh nh các
doanh nghiệp khác. Không những vậy, do nắm giữ các nghành kinh tế
then chốt, quy mô lớn, nguồn nhân lực dồi dào nên lợng hàng hoá tạo ra
bởi các doanh nghiệp nhà nớc chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản
phẩm xã hội.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nớc là công cụ quản lý vĩ mô nền
kinh tế của nhà nớc. Vai trò này là rất quan trọng, đợc biểu hiện ở những
vấn đề sau:
+ Doanh nghiệp nhà nớc giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế
và tạo ra lợng hàng hoá dự trữ lớn cho nhà nớc sử dụng để điều hoà cung
cầu, khống chế giá cả thị trờng, khắc phục các cơn sốt giá (cả sốt giá
nóng và sốt giá lạnh) thờng xảy ra trong nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trờng. Vấn đề có tính nguyên tắc của nền kinh tế thị trờng hiện
đại là nhà nớc có vai trò điều tiết, uốn nắn những lệch lạc của sự phát
triển do cơ chế thị trờng chi phối, chứ không thay thế thị trờng. Do vậy,
sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế cơ bản và chủ yếu là bằng các
biện pháp kinh tế chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Thông
qua đó nhà nớc tác động có hớng đến lợi ích của các chủ thể kinh tế
tham gia thị trờng, thúc đẩy hay bắt buộc các doanh nghiệp hoạt động
theo định hớng của nhà nớc. Để thực hiện tốt vai trò đó nhà nớc phải
nắm giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế, phải có lực lợng giự trữ hàng
hoá lớn, phải lập quỹ lu thông để điều hoà cung cầu. Khu vực kinh tê
12
quốc doanh sẽ đảm nhận vai trò này chứ không phải toàn bộ nền kinh tế.
Khi có sự biến động của nền kinh tế, nhà nớcc chủ động can thiêp vì đã
có sự chuẩn bị đầy đủ, chu đáo từ trớc, sớm làm dịu các cơn sốt, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Vấn đề khó khăn đặt ra là làm sao để các doanh nghiệp nhà nớc
vừa là công cụ quản ký vĩ mô của nhà nớc lại vừa là doanh nghiệp làm ăn
có lãi, đòi hỏi nhà nớc phải có một cơ chế quản lý thích hợp cho từng
loại hình doanh nghiệp nhằm giúp chúng đứng vững trong cạnh tranh,
hoàn thành đợc nhiệm vụ ổn định thị trờng.
+ Một hệ thống doanh nghiệp nhà nớc hoạt động có hiệu quả là
tác nhân quan trọng để nhà nớc làm đối trọng với các thành phần kinh tế
khác trong việc kiềm chế sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế do
thành phần kinh tế t nhân gây nên khi họ chạy theo lợi nhuận đơn thuần.
Kiềm chế sự lũng đoan của các thành phần kinh tế khác cũng nh tác
nhân từ bên ngoài trong từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế. Nhờ đó, nhà
nớc có thể hóng nền kinh tế phát triển theo chiến lợc đã chọn.
+ Khu vực kinh tế quốc doanh có vai trò là ngời mở đờng hỗ trợ
cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Hệ thống doanh nghiệp quốc doanh hoạt động có hiệu quả là lực
lợng vật chấ để liên kết lôi kéo các thành phần kinh tế khác phát triển
theo đúng định hớng phát triển kinh tế xã hội, hớng các thành phần kinh
tế khác vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện thành
công các chiến lợc kinh tế, với vai trò này, doanh nghiệp nhà nớc là yếu
tố đảm bảo, là tác nhân kích thích đối với các thành phần kinh tế khác,
cụ thể, doanh nghiệp nhà nớc tạo ra cơ sở hạ tầng, tạo môi trờng thuận
lợi để các thành phần kinh tế khác phát triển. Hơn nữa, doanh nghiệp nhà
nớc tạo ra sự an toàn, hiệu quả cho sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển
kinh tế xã hội.
13
Ngoài vai trò trên, doanh nghiệp nhà nớc còn là đơn vị thực
hiện các mục tiêu xã hội, đó là tạo sự công bằng, hỗ trợ cho các ngành
kinh tế kém phát triển, ít sinh lãi, làm tăng công ăn việc làm cho nền
kinh tế. Doanh nghiệp nhà nớc còn là ngời đầu t cho quá trình nghiên
cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, công nghệ sản xuất hiện đại,
doanh nghiệp nhà nớc còn tham gia vào quá trình đào tạo cán bộ khoa
học kỹ thuật, cán bộ quản lý, đầu t xây dựng cơ sở hạ tầng, là nền tảng
cho sự phát triển.
ở nớc ta, đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đờng lối đổi mới nền
kinh tế theo hớng phát triển của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, chúng ta đã khuyến khích mạnh
mẽ phát triển của các thành phần kinh tế khác cùng với việc củng cố, đổi
mới hoạt động của khu vực kinh tế quốc doanh, tạp thể, bảo đảm cho khu
vực kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của mình.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá đa thành
phần, Đảng và Nhà nớc ta luôn luôn nhận thức rõ cần thiết có một khu
vực kinh tế quốc doanh hùng mạnh, hoạt động có hiệu quả để giữ vững
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, tạo chỗ dựa vật chất cho Nhà nớc trong
quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế .
Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nớc ta
cần có sự lớn mạnh thực sự của khu vực kinh tế Nhà nớc, đủ sức mạnh để
làm đối trọng với các thành phần kinh tế khác. Mà sức mạnh đó phải là
sức mạnh thực sự về thực lực kinh tế chứ không phải là dựa vào quyền
lực của Nhà nóc. Khu vực kinh tế nhà nớc phải tự mình vơn lên dành
quyền chi phối các nghành kinh tế bằng chính sức mạnh kinh tế tài
chính của mình.
Trong thời gian qua, doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta đã không
ngừng lớn mạnh, luôn đứng vững trên thị trờng vốn có nhiều biến động
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét