CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
+ Rủi ro về tỷ giá: Là rủi ro đặc trưng trong kinh doanh ngoại tệ. Nó sẽ
xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái thừa hay thiếu, rủi ro về tỷ giá là rủi
ro mà các Ngân Hàng Thương Mại rất hay gặp . Khi ngoại tệ lên giá khi
đó ngân hàng kinh doanh sẽ có lợi nếu ngân hàng đang ở trạng thái dư
ngoại tệ và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tỷ giá luôn
luôn biến đổi nên ngân hàng luôn gặp phải rủi ro do tỷ giá biến động
+ Rủi ro về lãi suất : Lãi suất tăng của một đồng tiền sẽ tác động đến tỷ giá
hối đoái vì vậy so với rủi ro về tỷ giá thì rủi ro về lãi suất ít có ý nghĩa hơn
nhưng với khối lượng kinh doanh lớn thì cũng tạo ra những thiệt hại đáng
quan tâm
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp để thành
công trong kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin
hoàn hảo đây là đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại vì vậy để
thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần phải có đủ cơ sở vật chất
và các thiết bị hiện đại.
- Nhà kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có chuyên môn nhất định về
nhiều lĩnh vực , phải có những kỹ năng nhất định , phải có trình độ
quản lý vì kinh doanh ngoại tệ là hoạt động có mức độ rủi ro cao ,
không những thế nhà kinh doanh cũng phải có trí tuệ cao cùng với
những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì sẽ xảy ra trên thị
trường và tỷ giá sẽ biến động đến mức nào .
- Những nhà kinh doanh ngoại tệ cần có trạng thái tâm lí trí tuệ tốt và tự
tin rằng họ có thể kiếm được lợi nhuận thông qua giao dịch trong mọi
tình huống diễn biến cua thị trường tác động đến hoạt động kinh doanh
ngoại tệ là luôn luôn đúng do đó nhà kinh doanh phải là người thực tế
và có sự hiểu biết nhất định để thừa nhận những sai sót của mình , phải
sẵn sàng giảm các trạng thái ngoại hối đang thua lỗ trước khi khoản lỗ
trở nên trầm trọng .
2.2 Các hình thức kinh doanh ngoại tệ
5
5
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Thực tế cho thấy, bất kỳ loại hình kinh doanh nào mang lại lợi nhuận
lớn thì rủi ro mà nó đem lại cũng không phải là nhỏ và kinh doanh ngoại tệ
cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Để hạn chế các rủi ro người ta áp dụng các hình thức kinh doanh ngoại tệ trên
thị trường hối đoái.
Tuy nhiên, các hình thức này không chỉ đơn thuần là hạn chế phòng ngừa rủi
ro mà trong quá trình thực hiện, nó còn mang lại một phần lợi nhuận đáng kể
trong tổng lợi nhuận. Do đó, nó cũng là các hình thức kinh doanh ngoại tệ
trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm kinh doanh cuả ngân hàng. Mục đích
kinh doanh của ngân hàng là: phòng ngừa rủi ro, kinh doanh kiếm lời và kinh
doanh mang tính chất dịch vụ để thu phí.
1.2.1.Hình thức kinh doanh ngoại tệ giao ngay
Thị trường hối đoái giao ngay là một bộ phận của thị trường hối đoái,
doanh số hoạt động của nó chiếm khoảng 58 % tổng số doanh số thương mại
ngoại hối, trong khi thị trường kỳ hạn và thị trường theo quyền chọn chỉ
chiếm tương ứng là 40% và 20%.
Hình thức hối đoái giao ngay được thực hiện bằng hợp đồng mua bán
ngoại tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được
thực hiện chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Tỷ giá thanh toán ngay (sau hai ngày làm việc) trong thương mại quốc tế gọi
là SPORT-RATE, nếu một nhà kinh doanh ngoại tệ muốn thay đổi thời hạn
thực hiện hai ngày thành ba ngày thì có thể đề nghị bạn hàng của mình thực
hiện tỷ giá SPORT-NEXT, nếu muốn đổi thời hạn thực hiện từ hai ngày
thành một ngày thì đề nghị tỷ giá TOMOROW-NEXT,
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình
(Computer), bằng điện báo và trên các sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện
bằng kỹ thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử,
tức là việc thoả thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống“
Money dealing”. Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp liên
hệ với nhau và thoả thuận các hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin
6
6
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
được thực hiện bằng bàn phím với những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất
hiện trên màn hình, đồng thời một máy in được nối mạng với hệ thống sẽ in
lại thành biên bản thông tin được chuyển đi. Hệ thống này có ưu điểm so với
hình thức điện thoại là việc ghi nhận các thoả thuận bằng văn bản, khắc phục
các lỗi nhầm thường gặp trong giao dịch điện thoại như nghe nhầm, viết
nhầm, vì thế hệ thống “ Money dealing” được sử dụng rộng rãi.
Tỷ giá giao ngay (SPORT-RATE) được niêm yết trên các báo kinh tế
hàng ngày ở các quốc gia. Thực tế hiện nay, tỷ giá của hầu hết các loại ngoại
tệ được trao đổi đều được tính toán so với USD mà không được tính toán trực
tiếp với nhau nữa. Đồng USD được sử dụng như một loại ngoại tệ trung
chuyển ( transport), đồng thời tỷ giá giữa hai đồng tiền không thông dụng,
Điều kiện thực hiện hình thức kinh doanh hối đoái giao ngay là:
+ Trước hết, phải có nhu cầu của khách hàng, thông thường hình thức
giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện
hình thức này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Hình thức kinh doanh giao ngay còn được thực hiện trong hoạt động
đầu cơ của ngân hàng, dự toán tỷ giá của một đồng tiền trong thời gian tới,
ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với ngân hàng khác.
Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự toán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền
đầu cơ đó và thu chênh lệch. Ngoài ra, hình thức trao ngay được sử dụng kết
hợp với các hình thức khác trong các đầu cơ chênh lệch lãi suất.
1.2.2 Hình thức kinh doanh ngoại tệ chênh lệch tỷ giá( ARBITRAGE)
Hình thức kinh doanh ARBITRAGE là hình thức kinh doanh của bản thân
ngân hàng, theo ý nghĩa nguyên thuỷ cuả nó, hình thức này là việc lợi dụng sự
chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông
qua hoạt động mua và bán. Do đó, nó có tên gọi là kinh doanh chênh lệch tỷ
giá. Đó là việc tiến hành mua bán ngoại tệ đồng thời trên các thị trường hối
đoái theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ và bán ở nơi đắt. Nghĩa là mua với tỷ giá
thấp và bán với tỷ giá cao.
Hình thức này được thể hiện dưới hai dạng: kinh doanh giản đơn và kinh
doanh phức tạp. Kinh doanh giản đơn là việc mua bán ngoại tệ được thực hiện
7
7
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ở hai thị trường khác nhau trong cùng một thời điểm. Kinh doanh phức tạp là
việc mua bán ngoại tệ thông qua nhiều thị trường, từ 3 thị trường trở lên. Dù
là giản đơn hay phức tạp, hình thức này chỉ áp dụng giao dịch giữa ngân hàng
với ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của các nhà kinh tế có thu
chi ngoại tệ vẫn diễn ra thường xuyên, để đạt được hiệu quả trong việc sử
dụng các loại ngoại tệ, họ đã yêu cầu ngân hàng sử dụng hình thức
ARBITRAGE để thực hiện dịch vụ cho họ. Khi đó,ngân hàng với tư cách là
người phục vụ khách hàng và thu phí.
Khi thực hiện hình thức này, người ta áp dụng tỷ giá giao ngay, là tỷ giá
áp dụng tại thời điểm giao dịch (J) nhưng ngày giá trị của nó là sau hai ngày
việc (J+2). Trong trường hợp khách hàng cần giao dịch với hai đồng ngoại tệ
thì ngân hàng phải xác định tỷ giá chéo của hai loại đồng tiền thông qua đồng
tiền trung gian thứ ba.
Nếu là giao dịch với khối lượng ngoại tệ lớn sẽ tạo ra một khoản chênh
lệch đáng kể cho khách hàng. Sở dĩ có khoản chênh lệch này là do có sự
chênh lệch khác nhau giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán của các đồng tiền. Trước
đây,hình thức này rất phát triển chiếm tới đến 40 % lợi nhuận kinh doanh
ngoại tệ của ngân hàng nhưng ngày nay, trên cơ sở những thông tin hiện đại,
các thị trường ngoại hối trở nên thông suất hình thức kinh doanh
ARBITRAGE trên không cón ý nghĩa lớn trong kinh doanh ngoại hối.
Khái niệm hình thức kinh doanh ARBTRAGE ngày nay được hiểu là
việc mua bán ngoại tệ để nhằm thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá mua tỷ giá
bán, nhưng hai hoạt động đối ứng này không phát sinh cùng một thời điểm
mà thông thường liên quan tơí những phát sinh khi cân đối ngoại tệ.
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh ARBITRAGE là :
Trước hết, Ngân hàng phải là thành viên của hện thống thông tin điện tử,
ở đó Ngân hàng có thể thường xuyên theo dõi biến động tỷ giá các thị trường
khác nhau trên thế giới, đồng thời có thể đưa ra tỷ giá chào mua, chào bán của
mình.
Thứ hai, cán bộ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng cần có trình độ, phản
ứng linh hoạt với thị trường. Người kinh doanh ngoại tệ phải biết thông tin
8
8
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kinh tế chính trị, xã hội phải dự đoán được phản ứng của thi trường trước
những thông tin đó, đưa ra được mức tỷ giá thực tế luôn biến động ( ví dụ :
Khi nhận được thông báo thu từ nước ngoài vào Pháp giảm nhẹ trong tháng
qua, dự đoán xuất khẩu giảm sẽ dẫn tới giảm cung USD trong tương lai, lập
tức cán bộ ngân hàng Pháp ấn định tỷ giá của mình tăng cao một chút để tránh
những thiệt hại xẩy ra. Một ngân hàng Đức có 3 triệu USD chưa cân đối được
sau một hợp đồng bán FRF với khách hàng, nhận thấy cố thể thu lợi từ tỷ giá
chào mua vừa tăng của ngân hàng Pháp, lập tức bán 3 triệu USD này cho
ngân hàng Pháp.
Như vậy, các ngân hàng liên tục thay đổi tỷ giá, liên tục giao dịch ngoại tệ
trong ngày nhằm tránh rủi ro trước những biến động tỷ giá và thu lơị nhuận
ARBITRGE. Lợi nhuận này có thể thấp hơn lợi nhuận tính theo khoảng cách
giữa tỷ giá mua vào và bán ra của ngân hàng.
1.2.3. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn (FORWARD):
Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn được thực hiện bằng
hợp đồng mua bán bằng ngoại tệ kỳ hạn, trong đó việc hoàn tất hình thức này
được thực hiện vào một thời điểm nhất định sau đó, với tỷ giá nhất định đã
được quy định trong hợp đồng tại thời điểm ký kết.
Khác với hình thức mua bán theo hợp đồng giao ngay là kinh doanh
chênh lệch giá kiếm lời, hình thức mua bán theo hợp đồng kỳ hạn chủ yếu là
phòng ngừa rủi ro do biến động của tỷ giá tại thời điểm chuyển đổi quyền sở
hữu về tài sản hữu hình của các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài với
tỷ giá tại thời điểm thanh toán các giao dịch trong tương lai.
Đối với ccác nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, họ luôn có nguồn thu chi về
ngoại tệ trong nước cũng như nứoc ngoài và họ không thể tránh khỏi rủi ro do
các đồng ngoại tệ đem lại , vì nó luôn biến động theo chiều hướng tăng hoặc
giảm. Chính vì vậy các nhà xuất nhập khẩu, thực hiện hợp đồng với nước
ngoài về xuất khẩu một loại hàng hoá nào nhưng việc thanh toán không xẩy ra
ngay sau khi giao hàng mà nó xảy ra vào một ngày ấn định trong tương lai .
Trong khi đó tỷ giá các đồng ngoại tệ có thể thay đổi theo chiều hướng giảm ,
nghĩa là đồng ngoại tệ bị mất giá và đến ngày thanh toán nhà xuất khẩu nhận
9
9
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
được số tiền bản tệ “ít hơn” so với lúc giao hàng. Vì vậy, để giảm bớt rủi ro,
Anh ta ký với ngân hàng một hợp đồng gọi là hợp đồng có kỳ hạn với đúng
bằng thời hạn thanh toán của người nứơc ngoài. Ngược lại các nhà nhập khẩu,
để tránh khỏi rủi ro khi tỷ giá tăng họ cũng có thể ký hợp đồng mua với ngân
hàng.
“Hợp đồng mua bán kỳ hạn” là một hợp đồng trao đổi một đồng tiền này
với một đồng tiền khác, tỷ giá trao đổi trong tuơng lai được ấn định ngày ký
hợp đồng (J), việc giao vốn đựoc thực hiện ở một ngày xác định trong tương
lai (J+N)
Thị trường hối đoái giao ngay và thị trường hối đoái kỳ hạn có những đặc
điểm chung về phạm vi nhân sự tham dự và tổ chức thị trường, kỹ thuật ký
kết hợp đồng, ưu thế giao dịch của đồng USD. Điểm khác lớn nhất giữa
chúng thể hiện ở chỗ : Trên thị trường kỳ hạn , tỷ giá giao dịch ít phụ thuộc
vào mức độ cung cầu thời hạn mà phụ thuộc lớn vào mức chênh lệch lãi suất
giữa hai đồng tiền giao dịch .
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh theo hợp đồng kỳ hạn là:
+ Các quy định của pháp luật phải cho phép, tạo điều kiện cho các ngân
hàng qua các quy định về xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hợp đồng
+ Khách hàng biết đến hình thức này của ngân hàng và có yêu cầu thực
hiện nó nhằm tránh những biến động tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động
kinh doanh của khách hàng.
+ Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân
hàng chỉ thực hiện một hình thức kỳ hạn đơn lẻ, ngân hàng có thể phải gánh
chịu một rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình. Vậy khả năng, mối
quan hệ của ngân hàng với khách hàng khác, với các ngân hàng bạn trong
nước và thế giới là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện được các hình
thức đối ứng, loại trừ rủi ro trên. Hơn nữa, ngân hàng còn có khả năng đưa ra
mức tỷ giá kỳ hạn hấp dẫn với khách hàng hơn các ngân hàng khác.
10
10
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.4.Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai
Đây là một hình thức hối đoái mới, đưa vào các giao dịch ngoại tệ từ đầu
những năm 80. Hình thức này cũng được thực hiện gần giống với hợp đồng
kỳ hạn,trong đó quy định tránh nhiệm mua hoặc bán một khối lượng ngoại tệ
nhất định vào thời điểm ấn định và theo tỷ giá thoả thuận từ trước. Điểm khác
biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng tương lai được
tiêu chuẩn hoá, cụ thể như sau:
* Số đồng tiền giao dịch chỉ giới hạn ở một số ít đồng tiền cò lưu lượng
giao dịch lớn.
* Quy mô của từng giao dịch : Được quy định là bội chuẩn theo từng
loại đồng tiền giao dịch.
* Thời điểm tất toán : Được quy định là một số thời điểm nhất định
trong năm, bất kể hợp đồng được ký kết vào các thời gian khác nhau.
*Phương thức đánh dấu thị trường : Các loại động trên thị trường hối
đoái tương lai không tất toán trực tiếp giữa người bán và người mua.Việc ký
kết mỗi một hoạt động là việc ký kết với quỹ cân đối . Các hợp đồng dược
đảm bảo thực hiện bằng giá trị nguồn đảm bảo tại quỹ cân đối, quỹ này sau
mỗi ngày làm việc có trách nhiệm đánh giá lại các hợp đồng giao dịch cuối
ngày. Nếu có sự thay đổi về giá so với hợp đồng đã ký kết , quỹ cân đối sẽ
thực hiện ba hoạt động đó là ; Chuyển tiền từ nguồn đảm bảo của bên bị thiệt
hại sang bên được lợi, huỷ bỏ hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới.
* Khác với các giao dịch hối đoái kỳ hạn, các giao dịch hối đoái tương
lai rất ít được duy trì cho tới thời điểm tất toán. Trong khi tỷ lệ hợp đồng kỳ
hạn được thực hiện là 90% thì với giao dịch hối đoái chỉ khoảng 10%. Thông
thường ở giao dịch tương lai, chỉ có các hình thức thanh toán chênh lệch tại
thời điểm tất toán.
1.2.5. Hình thức kinh doanh ngoại tệ hoán đổi.
Trong hình thức kinh doanh kỳ hạn, một ngân hàng chỉ hoạt động một
giá để phục vụ khách hàng của mình, nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán ngoại
tệ theo tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng một hình
thức đối ứng bán hoặc mua lại. Những hình thức như vậy được gọi là hình
11
11
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
thức có kỳ hạn đơn phương (SOLO) chỉ được các ngân hàng thực hiện với
khách hàng hoặc theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Ngược lại, giữa các ngân
hàng người ta sử dụng phổ biến hình thức SWAP,đó là hình thức mà mua bán
ngoại tệ thực hiện cùng một bạn hàng, Ngân hàng đồng thời mua và bán hai
loại ngoại tệ khác nhau theo tỷ giá giao ngay và theo tỷ giá kỳ hạn.
* Hình thức SWAP thông thường:
Nếu tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch có kỳ hạn nhằm hạn chế rủi ro do
những biến động lớn về tỷ giá thì hình thức SWAP là nghiệp vụ được thực
hiện nhằm giải quyết những nhu cầu tạm thời.
* Điều kiện để thực hiện hình thức SWAP cũng tương tự như với hình
thức hợp đồng kỳ hạn, tuy nhiên SWAP có những ưu điểm hơn so với hợp
đồng kỳ hạn đối với một số đối tượng sau :
+ Một doanh nghiệp lớn vừa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh
nghiệp này vừa nhận được khoản thu ngoại tệ về xuất khẩu, anh ta muốn đổi
nội tệ để sử dụng chi trả trong nước. Tuy nhiên, anh ta lại có nhu cầu ngoại tệ
trong tháng tới để trả tiền hàng nhập khẩu. Thay vì ký kết hợp đồng bán ngoại
tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nhiệp này sẽ sử dụng
SWAP. Như vậy doanh nghiệp vừa đảm bảo tránh được rủi ro hối đoái vừa
giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ ký kết SWAP, chứ
không phải hai hợp đồng riêng biệt.
+ Đối với Ngân Hàng Thương Mại, SWAP là công cụ hữu hiệu tạo ra
trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại
hối . Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện
với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không
phải đi vay trên thị trường. Hình thức SWAP còn giúp các ngân hàng cân
bằng được sự mất cân đối về hối đoái trong các hình thức tiền gửi và tiền vay.
1.2. 6. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo quyền chọn
Hình thức hối đoái theo quyền chọn là một sự thoả thuận bằng hợp đồng
giữa người mua và người bán về quyền chọn mua (call-option) hoặc quyền
12
12
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
chọn bán (put-option), một loại ngoại tệ nhất định, với số lượng cụ thể theo tỷ
giá cố định và vào thời điểm cụ thể.
Trong hợp đồng này, người mua quyền lựa chọn phải trả cho người bán
một khoản tiền đảm bảo. Thông qua đó, người mua dành được quyền mua
hoặc bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác, anh ta có thể từ chối bỏ quyền
lựa chọn của mình khi thấy bất lợi. Rủi ro của người mua quyền lựa chọn chỉ
giới hạn ở số tiền phải trả cho quyền đó . Ngược lại, người bán quyền chọn
thu được một khoản tiền từ việc bán quyền nhưng trở thành đối tác thụ động,
chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ giá biến động không thuận lợi với anh ta.
Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho
các nhà kinh doanh XNK, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường quyền chọn,
ngoài các ngân hàng các nhà XNK còn có các tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên
tài khoản, muốn tăng thu nhập bằng việc thu các lệ phí quyền và chấp nhận
làm đối tác thụ động, hay các hãng đầu cơ tham dự với mục đích thu lợi
nhuận chênh lệch.
Hình thức này có ưu điểm hơn hình thức kỳ hạn là bên cạnh việc khắc
phục rủi ro về tỷ giá bất lợi của nó còn tạo khả năng kiếm lời cho người mua
quyền lựa chọn, khi tỷ giá biến động có lợi. Tuy nhiên, để có quyền lựa chọn
các nhà kinh doanh hối đoái phải trả môt khoản phí đảm bảo quyền lựa chọn
mua bán, phí này phụ thuộc vào các yếu tố sau :
* Sự ổn định của tỷ giá các đồng giao dịch : Đây là yêú tố quan trọng
hàng đầu ảnh hưởng đến mức phí, đối với đồng tiền có khả năng biến động
giá mạnh thì mức phí cao và ngược lại những đồng tiền tương đối ổn định thì
mức phí thấp.
Miền hoạt động của các đồng tiền giao dịch: Với những đồng tiền của các
quốc gia phát triển như USD, FRF, GBP có doanh số giao dịch lớn, có khả
năng chyển đổi mạnh thì mức phí thấp và ngược lại những đồng tiền của
những nước kém phát triển khó chuyển đổi và ngoại tệ mạnh thí mức phí cao.
* Thời hạn hiệu lực của hợp đồng mua bán quyền lựa chọn : Thời hạn
càng dài thì khả năng kiếm lời của nhà kinh doanh mua quyền chọn càng cao
và tất nhiên với đối tác thụ động thì rủi ro càng nhiều. Vì vậy, phí cho thời
13
13
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hạn dài thường lớn hơn phí trong mua bán quyền lựa chọn với thời hạn ngắn
rất nhiều.
Mức lãi suất của đồng tiền dùng thanh toán phí mua bán quyền lựa chọn :
Đối với đối tác thụ động coi đây là khoản phí tiền gửi không có lãi, do vậy lãi
suất đồng tiền này cao thì phí càng cao và ngược lại.
Thông thường, các ngân hàng là người bán các hợp đồng quyền lựa chọn
cho khách hàng XNK của mình. Vì phải ngánh chịu rủi ro nên việc xác định
mức tiền đảm bảo cho hợp đồng lựa chọn rất quan trọng.
3 . SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI
TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Để thấy được sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại
tệ ở các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam hiện nay ta đánh giá vai trò
hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với bản thân ngân hàng với bản thân
ngân hàng và đối với nền kinh tế như thế nào .
Ngày nay việc trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng vượt ra khỏi biên giới
của một quốc gia làm nảy sinh việc thanh toán giữa quốc gia này với quốc
gia khác , giữa doanh nghiệp quốc gia này với doanh nghiệp quốc gia khác
trong quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế . Thanh toán quốc tế thường
gắn với việc trao đổi đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác .
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, đầu tư vốn bằng
nhiều loại tiền khác nhau, các Ngân Hàng Thương Mại đã tiến một bước
dài vượt ra khỏi những kinh doanh truyền thống để thực hiện các hoạt
động nhận gửi , cho vay và mua bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái .
Khi đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng càng thể hiện vai trò quan
trọng không chỉ đối với ngân hàng mà còn cả đối với nền kinh tế
3.1 Đối với bản thân ngân hàng
- Đối với một Ngân Hàng Thương Mại , hoạt động kinh doanh ngoại tệ
đảm bảo chắc chắn việc thực hiện thanh toán cho khách hàng của ngân
hàng giữa các nước thực hiện trôi chảy , thoả mãn nhu cầu tối đa ngày
càng cao của khách hàng , tăng qui mô của ngân hàng thông qua việc thúc
14
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét