Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
“Quan hệ dân tộc” ở bất kỳ nước nào, giai đoạn lịch sử nào cũng hết sức
phong phú, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, chồng chéo, đan xen nhau. Lê Nin đã nói:
chừng nào mà các dân tộc khác nhau cùng chung sống trong một quốc gia thì họ gắn bó
với nhau bằng hàng triệu mối liên hệ về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật, phong tục tập
quán. Như vậy, quan hệ dân tộc là quan hệ tổng hợp, gồm cả giao lưu, giao tiếp, đan xen
giữa kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, lãnh thổ, tôn giáo, chủng tộc. Chúng tác động,
ảnh hưởng liên hoàn lẫn nhau, giữa các tộc người, các địa phương, các quốc gia dân tộc
và trong từng khu vực; mang tính nhạy cảm, tính thời sự cấp bách, dễ bị lợi dụng và dễ
dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột giữa các tộc người, các quốc gia. Chính vì thế, giải
quyết ổn thoả quan hệ dân tộc là yêu cầu chung để ổn định, hoà bình, hợp tác, phát triển
của từng tộc người, từng quốc gia và của cả nhân loại.
Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa
ngõ nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các
nền văn hoá trong khu vực. Ở đây có đủ 4 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á: Ngữ
hệ Nam Á, ngữ hệ Nam đảo, Ngữ hệ Thái và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân
tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau: Nhóm Việt - Mường; Nhóm Môn –
Khơme; Nhóm Tày – Thái; Nhóm HMông – Dao; Nhóm Kađai; Nhóm Nam Đảo; Nhóm
Tạng - Miến; Nhóm Hán.
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do
các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có
quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các
dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình.
Chính vì vậy, vấn đề “ Quan hệ dân tộc” giữa các dân tộc ở Việt Nam là một đề tài
phong phú và phức tạp luôn đặt ra cho các nhà nghiên cứu. Khái niệm “Dân tộc” ở đây là
dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể (Tày, Thái, Việt, Mường, Hoa…), đó thực ra là khái
niệm “tộc người”, là một hình thái đặc thù của một tập đoàn người, một tập đoàn xã hội,
xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi bốn đặc
1
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trưng cơ bản: ngôn ngữ, lãnh thổ, cơ sở kinh tế, đặc trưng sinh hoạt văn hóa và ý thức tự
giác tộc người, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Khái niệm “Quan hệ
dân tộc” ở đây cũng được hiểu theo nghĩa hẹp (liên quan nhiều đến ngành Dân tộc học,
đến chính sách dân tộc của Đảng cầm quyền và Nhà nước), đó là quan hệ trên hai phạm
vi: Quan hệ giữa các tộc người trong một địa phương, khu vực của từng quốc gia, ví dụ,
quan hệ giữa người Kinh với người Tày, người Kinh với người Chăm, giữa người Mông
với người Thái và quan hệ nội bộ tộc người hay giữa các nhóm địa phương của một tộc
người, như quan hệ giữa các nhóm Dao, giữa các nhóm Nùng với nhau.
Trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường được các
nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm bởi quan hệ thống nhất và chia tách các dân tộc của nó.
Đã có nhiều công trình, bài viết xung quanh vấn đề quan hệ Việt - Mường như: “Trong
lịch sử Người Việt và người Mường là hai hay một dân tộc” - Nguyễn Lương Bích- TC
Dân tộc học số 4, 1974; “ Về ngôn ngữ tiếng Việt - Mường”- Hà Văn Tấn - Phạm Đức
Dương - TC Dân tộc học, số 1, 1978; “Một vài nhận xét về mối quan hệ Việt - Mường và
quá trình văn hoá giữa tộc Việt và tộc Mường” - Trần Quốc Vượng - Nguyễn Dương
Bình – Thông báo khoa học trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, tập V, 1970,… Các bài
viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh trong quan hệ Việt Mường; Với mong muốn tìm
hiểu thêm về quan hệ của hai tộc người này, tiểu luận “Khái quát lịch sử quan hệ Việt -
Mường và các giai đoạn ngôn ngữ Việt - Mường” của tôi chỉ xin được khái quát quan hệ
Việt - Mường trên chủ yếu trên phương diện lịch sử hình thành và ngôn ngữ.
2
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG.
Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường thuộc họ Nam Á, nhánh Môn – Khơme gồm 4 dân
tộc: Tộc Kinh(Việt), tộc Mường, tộc Thổ, tộc Chứt
1. Tộc người Việt (Kinh)
Tộc người Kinh phân cư trú chủ yếu ở vùng đồng bằng, nay đã
có mặt đông đảo trên miền núi, là cư dân chủ thể hình thành và xây
dựng Tổ quốc Việt Nam. Hiện nay dân số khoảng 65 triệu người,
chiếm khoảng 86,2% tổng dân số Việt Nam[5; 266].
Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu đời và phát triển từ thời nguyên thuỷ. Trong
suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn là trung tâm thu hút và
đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền kinh tế của người Kinh
trải qua hàng ngàn năm cho đến trước thời hiện đại (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) vẫn
là kinh tế nông nghiệp kết hợp với nghề thủ công truyền thống, được đánh giá là một nền
kinh tế tiêu biểu cho Việt Nam và khu vực. Về tổ chức xã hội, người Kinh sau khi thoát
khỏi cuộc sống hang động, đã định cư và tạo nên cuộc sống lấy làng (mà người xưa gọi là
kẻ) làm nơi định cư. Về văn hoá, dân tộc Kinh là một trong những dân tộc ở trong khu
vực luôn đạt đến trình độ văn hoá văn minh rực rỡ của mọi thời đại, từ văn minh Việt cổ,
văn minh Đại Việt sau thế kỷ X cho đến ngày nay đều chứng tỏ điều đó. Trong văn hoá -
văn minh, từ văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá ứng xử, người Kinh đã sáng
tạo ra những nét đặc sắc cho mình, tiếp thu có chọn lọc các ưu điểm của các nền văn
minh khác để làm phong phú cho dân tộc. Trong tín ngưỡng văn hoá, thờ cúng tổ tiên là
tín ngưỡng quan trọng nhất của người Kinh. Bên cạnh đó, Người Việt chịu ảnh hưởng
3
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nhiều của văn hoá Trung - Ấn, đặc biệt là Trung Hoa với tư tưởng Nho, Phật, Đạo, gần
đây tiếp cận them với văn hoá phương Tây.
2. Tộc người Mường
Người Mường cư trú lâu đời ở các tỉnh Hoà Bình, Thanh
Hoá, Ninh Bình, Hà Tây, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ. Dân số
hiện nay khoảng 1,1 triệu người [5; 267] Về nguồn gốc lịch sử,
người Mường cùng nguồn gốc với người Kinh. Kinh tế chủ yếu
là trồng lúa nước; ngoài ruộng nước, người Mường còn làm
nương rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công
nghiệp. Tổ chức xã hội, chủ yếu là mường bản, mỗi bản gồm
một số gia đình, nhiều hay ít tuỳ theo địa bàn cư trú quy định,
bản có tổ chức chặt chẽ. Đại bộ phận người Mường ở nhà sàn,
kiểu nhà 4 mái. Trang phục tiêu biểu của phụ nữ là khăn đội đầu và áo cánh ngắn màu
trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ và hoạ tiết cực kỳ phong phú. Hôn nhân có
nhiều nét giống người Kinh. Tang ma cầu kỳ tốn kém. Người Mường có nền văn hoá dân
gian phong phú với nhiều truyện cổ (mo) nổi tiếng "Đẻ đất đẻ nước", "lên trời" Cuốn
"Mo-Sử thi dân tộc Mường" dày hơn 2000 trang, là di sản vô giá không phải chỉ của dân
tộc Mường mà của cả nền văn hoá Việt Nam. Tiếng Mường là tiếng Việt cổ bị khu vực
hoá, có đến 80% từ vựng tiếng Mường trùng với tiếng Việt trước thế kỷ XX, hiện còn
bảo lưu khá bền vững trong cộng đồng người Kinh vùng Hà Tĩnh.
3. Tộc người Thổ
Người Thổ sinh sống ở miền Tây tỉnh Nghệ An thuộc các huyện
Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và huyện Như Xuân tỉnh Thanh
Hoá. Dân số người Thổ hiện nay khoảng 68 nghìn người [5; 268].
Hoạt động sản xuất chủ yếu của người Thổ là làm nương rẫy, một số
nhỏ làm ruộng nước, trình độ canh tác phát triển khá cao. Nghề đánh
cá cũng rất phát triển; săn bắn, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã
góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ.
4
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Về tổ chức xã hội, dân cư sống thành làng xã như người Kinh, mỗi làng có trùm
làng được dân bầu theo định kỳ hàng năm. Đàn ông ăn mặc giống người Kinh, phụ nữ ăn
mặc theo sở thích, mỗi nhóm bắt chước các kiểu ăn mặc của người Thái, Mường hay
Kinh tuỳ điều kiện của mỗi nhóm. Hôn nhân chủ yếu giữa người Thổ với nhau, hôn lễ
của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới nhà trai phải dẫn một con
trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục
ở rể. Tang ma cũng lắm thủ tục và thường tốn kém. Thờ cúng tổ tiên là chính, ngoài ra
còn thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và
khai khẩn đất đai. Hội lễ phong phú như hội xuống đồng hàng năm, theo đó là nhiều
kiêng kỵ trong cuộc sống và sản xuất mà người Thổ thực hiện.
4. Dân tộc Chứt
Dân tộc Chứt sinh sống ở một số xã của hai huyện Minh Hoá và Bố
Trạch tỉnh Quảng Bình. Dân số hiện ngay khoảng gần 4 nghìn
người, chia làm nhiều nhóm: Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, A Rem, có
thể là nhóm đời sống khó khăn nhất trong các tộc người ở Việt Nam
hiện nay. [5; 268]. Người Chứt vốn sống bằng nông nghiệp nương
rẫy du canh, chăn nuôi và săn bắn, hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn
các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống
chính trong những năm mất mùa; nghề thủ công có đan lát và nghề mộc là phổ biến.
Người Chứt sống định cư và quần tụ thành từng làng (Cà Vên), nhưng làng tản mạn, mỗi
làng có trưởng làng do dân suy tôn, thường là trưởng tộc một dòng họ có uy tín nhất
trong làng. Nhà ở thường không bền vững, họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc,
dùng cột ngoàm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1945 các nhóm
Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Người Chứt không biết dệt vải,
mùa hè nam giới đóng khố, cởi trần; phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ
cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Kinh. Quan hệ vợ chồng bền vững; lễ
cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất ngoài lợn, gà,
nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Tang ma đơn giản và có nhiều ảnh hưởng của người
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Kinh. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn thờ đặt ở nhà tộc trưởng, người Chứt thờ nhiều ma: ma
rừng, ma suối, thần nông, ma bếp
Như vậy, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường gồm 4 tộc người có một số nét tương
đồng, nhưng cũng có nhiều đặc điểm khác biệt. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu nhóm
Việt - Mường đã được chia tách thành các dân tộc : Việt, Mường, Thổ, Chứt như ngày
nay. Quá trình thống nhất và chia tách của nhóm ngôn ngữ này là một vấn đề phức tạp
còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau trong giới nghiên cứu: khảo cổ, nhân chủng, dân
tộc học và ngôn ngữ, …
II. SỰ HÌNH THÀNH, THỐNG NHẤT VÀ CHIA TÁCH CỦA CƯ DÂN VIỆT -
MƯỜNG.
1. Sự hình thành và thống nhất của cư dân Việt - Mường.
Vấn đề hình thành cư dân Việt - Mường hay Việt Cổ là vấn đề được nhiều ngành
khoa học quan tâm. Để nghiên cứu lịch sử vấn đề này chúng ta không thể không xem xét
trên phương diện ngôn ngữ học. Nhóm ngôn ngữ Việt Mường gồm những ngôn ngữ nào?
Tại sao phải quan tâm đến nó? Henri Maspero (Paris, 1883 - Buchenwald (Allemagne),
1945) trong công trình nghiên cứu trứ danh về Ngữ âm lịch sử tiếng Việt (1912) trong lúc
truy tầm về nguồn gốc và quan hệ thân thuộc của tiếng Việt, đã vô tình đặt ra nền tảng
của cái mà ngày nay ta gọi là Nhóm Việt-Mường .
Tiếng Việt tách ra thành một cá thể ngôn ngữ riêng biệt từ một hạ tầng Nam Á
(substrat austroasiatique) nhưng vì những vay mượn qua tiếng Thái (còn gọi là Tháy,
Táy) và tiếng Hán và trải qua những biến chuyển ngữ âm đặc thù với sự hình thành một
hệ thống sáu thanh điệu, nên đã che lấp đi quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này. Vì vậy
tiếng Việt lần lượt được xếp là có quan hệ gần với những họ ngôn ngữ Môn-Khmer,
Miến-Tạng, Thái, để sau cùng được đưa vào họ Nam Á năm 1942 bởi Thomas A.
Sebeok (1920-2001 , rồi năm 1956 bởi André-Georges Haudricourt (Paris, 1911 -
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1996).
Haudricourt tiếp nối công trình của Maspero là người đầu tiên nêu lên tiếng Việt
có cơ tầng Môn – Khơme, được làm giàu thêm bởi sự tiếp xúc với ngôn ngữ Thái, Nam
Đảo và tiếng Hán. Nói như vậy có nghĩa nó nằm chủ yếu trên đất Việt Nam, cái nôi là
miền trung du - đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. “Tiếng Việt - Mường nói chung hay
tiếng Việt nói riêng là một ngôn ngữ hỗn hợp, một ngôn ngữ cầu nối bao hàm trong bản
thân những yếu tố của ngôn ngữ Môn – Khơme, với các ngôn ngữ từ phương Bắc đến:
Tày – Thái, Kađai; từ biển vào: Nam - Đảo; và về sau với ngôn ngữ Hán”. [5; 261].
Theo Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương, cư dân Việt - Mường có nhiều khả năng
làm chủ nhân của những di tích hậu kỳ đá mới hay sơ kỳ kim khí có những nét gần gũi
với văn hoá Phùng Nguyên.
Về nguồn gốc dân tộc Việt và Mường, các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất
với nhau trong việc xác định người Việt và người Mường (người Việt miển núi) có chung
một nguồn gốc và từ những thời đại xã xưa đã cùng một dân tộc. Điều đó thể hiện rõ nét
trong việc cả người Việt miền núi và Việt đồng bằng (từ thời Hùng Vương) đều dùng
danh từ “quan lang” để chỉ các tầng lớp trên trong xã hội. Đến thời Phùng Hưng, “quan
lang” chính thức được đùng để chỉ các thủ lĩnh người Việt ở các địa phương. Việc Phùng
Hưng được phong làm “quan lang” Đường Lâm chứng tỏ chế độ quan lang đã tồn tại
trong phạm vi cả nước, không phải chỉ có ở các địa phương người Việt miền núi (đồng
bào Mường bây giờ). Việc tồn tại bền vững chế độ “quan lang” ở các vùng, mường là yếu
tố chứng tỏ sự thống nhất giữa người Việt đồng bằng và người Việt miền núi (người
Mường). Người Việt miền núi đời đời gắn bó với người Việt đồng bằng trên mọi mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá nhất là về chính trị và quân sự, phục vụ lợi ích chung
của dân tộc, của Tổ Quốc đã chứng minh điều đó.
Vậy tên “ Mường” có từ bao giờ và người Mường đã tách ra từ thời gian nào trong
lịch sử? Đây là những câu hỏi còn gây nhiều tranh luận.
Một số ý kiến cho rằng, Người Mường có thể đã trở thành một dân tộc khác với
người Việt từ lâu đời. Các tác giả như: Trần Quốc Vượng, Nguyễn Dương Bình, Nguyễn
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Văn Tài,… chủ trương việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời kỳ Bắc thuộc. Ý kiến
đó theo Đặng Nghiêm Vạn “có phần đúng nhưng chưa đủ” [5; 265]. Bên cạnh đó, ý kiến
của Nguyễn Lương Bích lại cho rằng đến tận cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX không có
danh từ “ Mường” để chỉ người hoặc tộc người. [1] Vậy cơ sở của những ý kiến trên như
thế nào?
Nếu như trước khi nhà Khúc dựng nền độc lập, người Việt đồng bằng và miền núi
đều thống nhất trên nhiều phương diện chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự, thì từ đầu thế
kỷ X, lịch sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Chế độ quan lang ở
các địa phương dần dần bị xóa bỏ tạo cơ sở cho sự tồn tại của nhà nước Trung ương tập
quyền. Chế độ quan lang từ đầu thế kỷ X đã không còn ở miền đồng bằng nhưng vẫn
được duy trì lâu dài tại các khu vực người Việt ở miền núi. Đó có thể là lý do để nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời Bắc thuộc. Bên
cạnh đó, có thể vì một nguyên do nữa là: đến thời Đinh, Lê, Lý, sử sách danh từ “Cử
Long man” để chỉ người vùng Cử Long. Cách gọi đó còn được hiểu: coi người Cử Long
là một dân tộc man di, một dân tộc thiểu số, không phải người Việt.
Tuy vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu, danh từ “mường” thường được người Việt và
người Thái dùng để chỉ những khu vực tụ cư, những địa phương hành chính ở miền núi. “
mường” còn thường được phiên âm thành “mãnh” “mang”, hay “man” theo tiếng Hán
như Mãnh thiên, tức Mường Thanh (Điện Biên); Ngưu Hống man tức mường Ngưu
Hống (nay là Yên Châu, Sơn La). Và theo Lương Bích Hữu[1] “man” sử dụng ở trên
cũng chỉ có nghĩa là “mường”, một khu vực hành chính ở miền núi, không phải là cơ sở
để nhận định người Việt ở các vùng mường đã trở thành một dân tộc, tách khỏi dân tộc
Việt từ thế kỷ X. Đặng Nghiêm Vạn[5; 265] dù không khẳng định chắc chắn thời gian mà
người Việt miền núi tách ra thành dân tộc Mường nhưng cũng nhận định: chủ trương coi
việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời Bắc thuộc có phần đúng nhưng chưa đủ. Và
cho đến trước thời Pháp chưa thấy thuật ngữ Mường trên các sử sách. Nhận định trên có
phần tương đồng với nhận định của Nguyễn Lương Bích khi khẳng định: trong các thời
đại trước, lịch sử chưa hề ghi nhận có một dân tộc gọi là dân tộc Mường, và cho tới cuối
thế kỷ XIX, những người Việt ở vùng mường cũng chưa tự nhận là một dân tộc khác,
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
không phải dân tộc Việt[1]. Bởi trong “Đại Nam nhất thống chí” các tác giả đã phân biệt
khá tỷ mỷ nhiều dân tộc thiểu số ở miền Bắc nước ta, nhưng không có chỗ nào nói tới
người Mường, hoặc nói rằng người Việt miền núi đã trở thành một dân tộc khác với một
tên gọi khác.
Như vậy, có thể nói, trước thế kỷ XX, mặc dù có sự khác biệt về trạng thái sinh
hoạt do sự khác biệt về địa lý mang lại nhưng người Việt đồng bằng và người Việt miền
núi về cơ bản vẫn chung một chế độ, và trình độ xã hội. Và dù còn nhiều các nhà khoa
học vẫn muốn chứng minh, nguời Việt miền núi đã tách ra thành dân tộc Mường từ giai
đoạn sớm hơn trong lịch sử, nhưng chưa có tư liệu nào thật sự thuyết phục để khẳng định
điều đó.
2. Sự tách biệt của người Mường (người Việt miền núi) thành dân tộc Mường.
Vậy người Mường (người Việt miền núi) thực sự được tách ra thành một dân tộc
khi nào? Có phải từ khi Pháp vào xâm lược Việt Nam?
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chiếm đóng Việt Nam. Chúng đã sử
dụng chính sách chia để trị trên mọi lĩnh vực hòng duy trì ách thống trị lâu dài ở nước ta.
Việc đầu tiên mà chúng làm là tiến hành chia rẽ đất nước ta về mặt dân tộc, chia đất nước
thành nhiều mảnh với các chế độ cai trị khác nhau để dễ bề thống trị. Tiếp đó, chúng mở
các đợt tấn công để chiếm đánh các tỉnh, thành như Hưng Hoá, Sơn Tây, Nhân dân ta đã
chống trả quyết liệt, đặc biệt là đồng bào các dân tộc miền núi rộng lớn với hang nghìn
mường, bản lớn nhỏ.
Trước tình hình đó, Pháp chủ trương vừa dùng quân sự, vừa triệt để chia cắt các
tỉnh miền núi ra thành nhiều mảnh nhỏ để dễ bề ứng phó. Chúng đưa quân lên miền núi,
khoanh vùng những mường lớn, hoặc gộp mấy mường, thành lập những tỉnh nhỏ, để xoá
bỏ chế độ chính quyền của ta, đặt bộ máy thống trị, đàn áp của chúng, để lừa bịp, chia rẽ
các dân tộc cũng như thúc ép các nhóm dân cư hằn thù, chống đối nhau.
Năm 1886, trong vòng hai tháng, thực dân Pháp đã cắt tỉnh Hưng Hoá, thành lập 4
tỉnh mới: Lào Cai, Sơn La, Hưng Hoá, Chợ Bờ, sau này thêm tỉnh Lai Châu. Đến năm
1895, trong vòng 8 năm, thực dân Pháp đã thực hiện được việc chia cắt miền núi phía
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tây nước ta thành nhiều mảnh, thành lập nhiều tỉnh nhỏ, và đã dập tắt được phong trào
kháng chiến của ta ở đây.
Không những vậy, thực dân Pháp còn chủ trương thành lập một tỉnh gồm tất cả các
vùng mường thuộc Hưng Hoá, Sơn Tây, Hà Nội, Ninh Bình. tháng 7/1886, tỉnh Chợ Bờ
được thành lập, và Pháp tiếp tục tiến hành các đợt tấn công vào vùng này. Tháng 3/1891,
Pháp dồn 2 châu Lương Sơn, Lạc Thuỷ về Chợ Bờ, sau đó xoá bỏ tên Chợ Bờ, đổi là tỉnh
Hoà Bình. Trong nghị định toàn quyền ngày 18/3/1891 lập lại tỉnh Hoà Bình, thực dân
Pháp đưa lý do: “một tỉnh mường để đem lại cho các bộ lạc chế độ hành chính hợp nhất
với tổ chức và tập quán phong kiến của họ”. Lần đầu tiên thực dân Pháp đã dung hai chữ
“tỉnh mường” , nhưng hai chữ ấy chưa có nghĩa là tỉnh của dân tộc Mường”.
Năm 1905, thực dân Pháp tiến hành lập các bản đồ dân tộc của toàn Đông Dương.
Và tới đây, Pháp đã chia rẽ xong khối dân tộc Việt, tách người Việt vùng mường thành
một dân tộc riêng, chính thức gọi là dân tộc Mường. Vậy, việc tách ra và thành lập dân
tộc Mường có phải chỉ là sự cưỡng ép của thực dân Pháp thôi không?
Thực dân Pháp mặc dù đã chính thức chia tách bộ phận dân cư Việt từ Thanh Hoá
trở ra thành dân tộc Mường, nhưng không dám công khai việc đó, thế nên triều dình Huế
cho đến tận năm 1925 vẫn không hề hay biết gì. Bên cạnh đó, dân tộc Việt miền núi cũng
chưa tự nhận mình là người dân tộc Mường, trừ trường hợp phải khai báo về mặt hành
chính.
Theo Nguyễn Lương Bích[1], “Tên dân tộc Mường mới chỉ có từ thời Pháp thuộc,
sự tách biệt người Việt vùng Mường thành dân tộc Mường chỉ là một qui định hành chính
theo chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp cách đây chưa đầy một trăm năm, không
phải là kết quả của quá trình phát triển của dân tộc ta ở bất kỳ thời đại nào trong lịch sử”
Tôi đồng ý với việc cho rằng tên dân tộc Mường chỉ mới có từ thời Pháp thuộc;
nhưng nếu nhận định việc tách ra của dân tộc Mường không phải là kết quả của quá trình
phát triển của dân tộc ta ở bất kỳ thời đại nào trong lịch sử thì chưa thực sự chính xác.
Bởi, việc tách dân tộc Mường khỏi Việt là cả một quá trình. Ngay từ trước khi Pháp vào
Việt Nam, thì dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán, đã có sự tương đối tách biệt giữa người
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Việt đồng bằng (người Kinh) với những cư dân Việt - Mường khác (ít tiếp xúc với văn
hoá Hán hơn). Bên cạnh đó, sự khác nhau về địa lý dẫn đến khác nhau về tập quán sinh
hoạt, sản xuất, trình độ xã hội,… tất yếu cũng sẽ dẫn đến sự chia tách cư dân Việt Mường
thành Việt, Mường, Thổ, Chứt như ngày nay. Thực dân Pháp chỉ chính thức hợp lý hoá
và đưa ra tên gọi “Mường” cho các cư dân Việ miền núi mà thôi, còn quá trình tách biệt
dần dần của nó đã bắt đầu từ trước đó. Chúng ta có thể thấy quan điểm này trùng với
quan điểm của một số nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu về các giai đoạn phát triển của
ngôn ngữ Việt Mường.
III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG
1. Giai đoạn tiền Việt-Mường
Theo kết quả nghiên cứu hiện nay, người ta ước lượng giai đoạn tiền Việt-Mường
của tiếng Việt là tiếng nói sau giai đoạn Mon-Khmer và kéo dài cho đến thế kỉ thứ nhất
và thứ hai sau công nguyên. Do đó, quãng thời gian tương đối mà người ta nói đến của
giai đoạn Việt-Mường là ít nhất vào khoảng trên 2000 năm. Nếu đứng trên bình diện văn
hoá, đây là giai đoạn tương ứng với giai đoạn văn hoá Đông Sơn, văn minh sông Hồng,
đặc biệt là văn minh lúa nước và đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của đồ đồng và
bắt đầu có sự xuất hiện của đồ sắt. Còn về mặt nhà nước, đây là giai đoạn tương ứng với
thời kì Hùng Vương – nhà nước đầu tiên của người Việt. Có thể nói sự xuất hiện của nhà
nước và sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã có những ảnh hưởng quan trọng
trong việc phát triển tiếng Việt cũng như củng cố vị trí của nó trong cộng đồng cư dân
Việt.
Tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường tuy là một ngôn ngữ thống nhất nhưng tự
bản thân nó đã có sự phân biệt. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ mang tính chất phương
ngữ mà thôi.
Sự khác nhau có tính phương ngữ này là cơ sở để về sau hình thành các ngôn ngữ
khác nhau trong nhóm Việt-Mường. Như vậy, các ngôn ngữ khác nhau trong nhóm Việt-
Mường chính là hệ quả của sự khác nhau ban đầu này và do yếu tố địa lí chi phối.
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ chưa có thanh điệu.
Bởi vì vừa tách khỏi nhánh Mon-Khmer nên tiếng tiền Việt-Mường vẫn còn lưu giữ đặc
điểm không có thanh điệu của các ngôn ngữ Mon-Khmer thuộc họ Nam Á. Và cho đến
hiện nay, tiếng Arem trong nhóm Việt-Mường hiện tại cũng là một ngôn ngữ không có
thanh điệu.
Ở thời kì tiền Việt-Mường, tiếng Việt là một ngôn ngữ mà vốn từ vựng của nó về
cơ bản là thuần Môn-Khơme và nó đã có ít nhiều tiếp xúc với các ngôn ngữ thuộc họ Nam
Đảo và Thái-Kadai. Riêng đối với họ Hán-Tạng thì các ngôn ngữ tiền Việt-Mường dường
như chưa có sự tiếp xúc.
Do hai khả năng vừa phân tích trên, nhiều nhà nghiên cứu dự đoán ở giai đoạn tiền
Việt-Mường, tiếng Việt vẫn còn sử dụng phương thức phụ tố trong cấu tạo từ để tạo
thành từ mới. Điều đó chứng tỏ tiếng tiền Việt-Mường còn lưu giữ đầy đủ đặc điểm của
Môn-Khơme. Sự phân biệt giữa tiếng tiền Việt-Mường với các ngôn ngữ Môn-Khơme có
chăng chỉ là sự ảnh hưởng của các ngôn ngữ Thái. Vì vậy, có thể nói, các ngôn ngữ Thái
là tác nhân làm cho khối Mon-Khmer tách riêng ra một nhóm ở phía đông của nhánh và
đó là tiền thân của tiền Việt-Mường.
Các nhà nghiên cứu về lịch sử ngôn ngữ cũng như lịch sử văn hoá thường đồng
nhất tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường trong lịch sử tiếng Việt như là một ngôn ngữ
dùng chung cho nhà nước Văn Lang của thời kì Hùng Vương. Tuy nhiên, chứng cứ để
chứng minh cho sự tồn tại của ngôn ngữ thống nhất này, vì tính chất quá cổ xưa của lịch
sử, không còn được giữ lại. Người ta chỉ có thể nhận biết điều này nhờ 2 hệ quả như sau:
Ở giai đoạn lịch sử về sau, tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ đã bị một ngôn
ngữ khác đặt vào vị thế bị đồng hoá và thời gian ở vị thế ấy kéo dài hàng nghìn năm. Tuy
nhiên, khi lịch sử không duy trì điều kiện bị đồng hoá đó, ngay lập tức tiếng Việt trở
thành một ngôn ngữ thống nhất trong toàn dân. Chính việc tiếng Việt trở thành một ngôn
ngữ thống nhất sau khi môi trường bị đồng hoá mất đi đã chứng tỏ ở giai đoạn tiền Việt-
Mường tiếng Việt đã là một ngôn ngữ phát triển khá bền vững
Khi chúng ta nói tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường là một ngôn ngữ thống
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nhất như vậy cũng có nghĩa là chúng ta nói tới tất cả các ngôn ngữ trong nhóm Việt-
Mường hiện nay mà không có sự phân biệt như ở giai đoạn hiện tại: phân biệt giữa tiếng
Việt với tiếng Mường; Mường – Cuối; Cuối – Arem; Rục - Sách;
Trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, giai đoạn tiền Việt-Mường được coi là khởi
đầu của lịch sử tiếng Việt. Do đó, tiếng tiền Việt-Mường được coi là ngôn ngữ mẹ hay
ngôn ngữ cơ sở, ngôn ngữ chung mà từ đó xuất hiện tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm
Việt-Mường hiện nay. Và để chứng minh được điều này, người ta luôn luôn đòi hỏi các
nhà nghiên cứu phải tái lập được dạng thức tiền Việt-Mường của tiếng Việt.
2. Giai đoạn Việt-Mường cổ
Thời gian: ứng vào quãng sau thế kỉ 1–2 sau công nguyên và kéo dài đến thế kỉ 8–
9, thậm chí là có thể đến thế kỉ 10. Về mặt lịch sử, giai đoạn này tương ứng với thời kì
Bắc thuộc. Điều kiện lịch sử này là nhân tố ngoài ngôn ngữ cho chúng ta biết rằng đây là
giai đoạn tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Hán nhiều nhất trên cả hai bình diện: tự nguyện và
ép buộc.
Vào thời kì này, trên vùng địa lí của cả khối ngôn ngữ tiền Việt-Mường đã có sự
phân hoá, sự phân hoá này dẫn đến kết quả là:
+ Một bộ phận tách biệt trở thành các ngôn ngữ hiện nay như kiểu tiếng Arem,
Rục, Mã Liềng (ngôn ngữ song tiết);
+ Một bộ phận có tiếp xúc với tiếng Hán trở thành các ngôn ngữ Việt-Mường cổ
(ngôn ngữ đơn tiết).
Sự phân chia về mặt ngôn ngữ này cũng tương ứng với sự phân chia về mặt địa lí:
- Việt-Mường cổ ở phía Bắc và khu vực đồng bằng;
- Phần còn lại ở phía Nam và khu vực miền núi.
- Trong suốt gần 1000 năm Bắc thuộc, việc tiếp xúc giữa tiếng Việt và văn hoá
Việt bản địa với tiếng Hán và văn hoá Hán ở địa bàn tương ứng với lãnh thổ Đại Việt sau
này là khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian, địa lí và thậm chí là cả về phương thức tiếp
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
xúc.
Tiếng Việt-Mường cổ đã có sự tiếp xúc đặc biệt với tiếng Hán. Sự tiếp xúc này dẫn
đến 2 hệ quả:
- Thứ nhất, vốn từ vựng của tiếng Việt lúc này đã có sự vay mượn từ tiếng Hán.
Như vậy, đến giai đoạn này, tiếng Việt đã tiếp xúc với các họ ngôn ngữ: Nam Đảo – Thái
Kadai – Hán Tạng. Và có thể xác định thành phần (về mặt nguồn gốc) từ vựng tiếng Việt
giai đoạn này như sau:
+ Cội nguồn: họ Nam Á và nhánh Mon-Khmer;
+ Vay mượn: Nam Đảo – Thái Kadai – Hán-Tạng
- Thứ hai, tiếng Việt ở giai đoạn Việt-Mường cổ đã bắt đầu một quá trình đơn tiết
hoá. Chính vì hiện tượng này mà bộ phận tiền Việt-Mường nào chịu tác động nhiều thì sẽ
phát triển theo xu hướng của Việt-Mường cổ; còn bộ phận nào không chịu ảnh hưởng của
tác động này thì sẽ lưu lại và hiện nay trở thành hiện thân của bộ phận tiền Việt-Mường
xưa kia.
Lúc này đã có sự xuất hiện thanh điệu trong tiếng Việt-Mường cổ cũng như sự thể
hiện của tính chất đơn tiết theo quy luật đơn tiết hoá của tiếng Việt - Mường cổ
Nếu như ở giai đoạn tiền Việt-Mường các ngôn ngữ hiện nay được xếp vào nhóm
Việt-Mường đang là một khối thống nhất thì ở giai đoạn này đã có một sự phân hoá. Sự
phân hoá này làm tách biệt thành một bên là những ngôn ngữ tiền Việt-Mường còn lưu
giữ lại đến ngày nay và một bên là các ngôn ngữ Việt-Mường cổ để nó tiếp tục phát triển
theo một hướng khác.
3. Giai đoạn Việt-Mường chung
Giai đoạn Việt Mường chung là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử phát
triển của tiếng Việt. Theo nghiên cứu hiện nay, vào giai đoạn này tiếng Việt và tiếng
Mường đang còn là một ngôn ngữ thống nhất. Chỉ về sau giai đoạn này tiếng Việt mới
tách ra thành một ngôn ngữ riêng lẻ thực sự.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét