Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Đầu tư nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần tư vấn xây dựng Sông Đà

Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
vi quốc gia thì đó là những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để
trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ,
hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển chính là quá trình chi
tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung
vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát
triển xã hội trong dài hạn.
II- Phân loại và tác động của các hoạt động đầu tư phát triển trong sản
xuất kinh doanh:
Có nhiều cách phân loại hoạt động đầu tư tuỳ theo bản chất , phạm
vi lợi ích do hoạt động đầu tư đem lại, tuỳ theo thời hạn đầu tư, phương
thức đầu tư.
1. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể
phân biệt đầu tư thành các dạng sau:
1.1. Đầu tư tài chính:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền cho vay hoặc mua các
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm, mua trái
phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu hoặc trái phiếu công ty).
Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc
dân( nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm
tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc, đánh
đề cũng là một hình thức đầu tư tài chính nhưng không được pháp luật
cho phép do gây nên các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức
đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có
thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu,
cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để
đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít
tiền. Đây là nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.2. Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và
sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
và khi bán. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản của
người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu
hàng hoá giữa người bán và người đầu tư và người đầu tư với khách hàng
của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu
thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư
phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói
chung( Chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư
thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng
thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lí lưu
thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi phí của
người tiêu dùng).
1.3. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các
hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản
xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để
tạo ra việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó là
việc bỏ tiền ra xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang
tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được
gọi chung là đầu tư phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để
duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ
bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế xã hội trong dài hạn.
2. Theo thời hạn đầu tư, hoạt động đầu tư phát triển được phân
thành các loại sau:
2.1. Đầu tư dài hạn:
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
Là kế hoạch đầu tư mang tính chất lâu dài, định hướng sự phát
triển của công ty, thường kế hoạch đầu tư dài hạn có thời gian đầu tư từ
10 năm trở nên và có quy mô thường to lớn. Do có thời hạn đầu tư dài và
mang ý nghĩa định hướng lâu dài trong chiến lược phát triển của doanh
nghiệp nên đầu tư dài hạn có khối lượng tài sản số lượng lao động huy
động là rất lớn.
Đầu tư dài hạn là hoạt động chủ yếu nhằm xây dựng cơ sở vật chất
lâu dài cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đồng thời
dựa trên các mục tiêu kế hoạch của đầu tư dài hạn, doanh nghiệp, nền
kinh tế sẽ đào tạo xây dựng được một đội ngũ cán bộ công nhân viên kĩ
thuật, cán bộ quản lí có trình độ cao hơn. Thông qua các kế hoạch dài
hạn, doanh nghiệp sẽ có chiến lược mở rộng thị trường, xây dựng thương
hiệu cho mình. Kế hoạch đầu tư dài hạn đòi hỏi những người lập kế
hoạch đầu tư dài hạn của công ty phải rất cẩn thận và có tầm nhìn chiến
lược thật tốt nếu không sẽ làm cho kế hoạch đầu tư không được thành
công và kéo theo là sự sụp đổ của doanh nghiệp hoặc làm cho doanh
nghiệp không thể phát triển được. Do thời hạn của đầu tư dài hạn là rất
dài so với sự thay đổi của tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường
nên bên cạnh các kế hoạch đầu tư dài hạn có tính chất định hướng, doanh
nghiệp còn luôn luôn phải đề ra những kế hoạch ngắn hạn nhằm từng
bước hiện thực hoá kế hoạch đầu tư dài hạn, tránh sự phát triển lệch lạc
và bám sát hơn với sự phát triển của nền kinh tế.
2.2. Đầu tư ngắn hạn:
Là kế hoạch đầu tư có thời gian đầu tư ngắn, thường là dưới 10
năm. Đầu tư ngắn hạn có tác dụng tạo lực đẩy cho sự phát triển của công
ty tuỳ theo mỗi thời kì ngắn. Là cách mà doanh nghiệp có thể bổ trợ,
củng cố kế hoạch dài hạn. Thông qua đầu tư ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ
có đối sách tốt hơn, phản ứng nhanh nhạy hơn với sự biến động của thị
trường. Đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi vốn và lợi
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
nhuận hơn so với đầu tư dài hạn. Đầu tư ngắn hạn không yêu cầu phải
huy động một khối lượng vốn đầu tư lớn và một số lượng nhân lực nhiều
nhưng đòi hỏi những nhà quản lí của doanh nghiệp phải có một cái nhìn,
một phản ứng nhanh nhạy đối với thị trường trong mỗi sự biến động của
thị trường.
Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn bổ sung những khuyết điểm của
nhau và tạo cho sự phát triển thông thoáng nhanh nhạy của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường đầy biến động. Các kế hoạch đầu tư tạo cho
doanh nghiệp hoạt động một cách trơn tru và phản ứng tốt với biến động
của thị trường.
III- Vai trò của hoạt động đầu tư :
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh
tế, cả lí thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị
trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh
tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
1. Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
của đất nước :
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã
hội mà còn tạo ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế ở
những nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và
nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền kinh tế phát triển.
a.Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ
nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm
khoảng 24% -28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới.
Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa
kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q
0
-Q
1
và giá cả của
các đầu vào của đầu tư tăng từ P
0
-P
1
. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E
0
-
E
1
.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng
lên( đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ
Q
0
-Q
1
và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P
0
-P
1
. Sản lượng tăng, giá cả
giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục
kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để
tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động,
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
b. Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với
tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi
của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự
ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm
cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công
nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của
người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn,
thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư
làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các nghành
này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng
cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động
này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến
tác động 2 mặt, nhưng theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây.
Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách
cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế
các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của
toàn bộ nền kinh tế.
c. Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu
có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối
với các nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các
khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó
khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu
kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ
nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển
thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về
tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
d. Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện
tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước
ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công
nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo
UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai
đoạnthì Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với
trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam
sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư
phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là
tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài.
Dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần
phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với
nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
f. Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ
tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với
GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
ICOR = =
GDP do vốn tạo ra

GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng trưởng của GDP hoàn toàn phụ
thuộc vào vốn đầu tư.
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu
lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng
công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng
lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi
theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Số liệu
thống kê trong những năm qua của các nước và lãnh thổ về ICOR như
sau:
CHỈ TIÊU ICOR CỦA CÁC NƯỚC
Các nước Thời kì
1963-1973
Thời kì
1973-1981
Thời kì
1981-1988
Hồng Kông 3,6 3,4 3,9
Hàn Quốc 2,0 4,0 2,8
Singapo 3,1 5,0 7,0
Đài Loan 1,9 3,7 2,8
Nguồn : Bela Balassa, Policy Choices in the Newly Industrializing
Contries . Working papers of the Wold Bank WPS 432.1990,tr.5
2. Đầu tư tác động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh:
Đối với mỗi doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định dến cả
sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào cũng cần phải xây dựng nhà
xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ,
tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền
với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa
được tạo tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các
cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt
động, các cơ sở vật chất kĩ thuật của các cơ sở này đã hao mòn, hư hoảng.
Để duy trì dc sự hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa
lớn hoặc thay mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát
triển khoa học kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải
mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi
thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
3. Đối với các cơ sở vô vị lợi ( hoạt động không thể thu lợi nhuận cho
bản thân mình) :
Để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kì các
cơ sở vật chất- kĩ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất
cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng và tác động đến
mọi đối tượng kinh tế của xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là động lực
chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, duy trì và phát triển cơ sở vật chất của nền kinh tế.
IV- Vốn đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư:
1. Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là khái niệm dùng để chỉ các nguồn lực hiện tại chi
dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu về một nguồn lực
mới có khối lượng và giá trị lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra. Đối với đầu tư
phát triển nói riêng thì vốn đầu tư chính là các khoản tiền, khoản của cải
vật chất, nguyên nhiên vật liệu và hàng hoá chi dùng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh để thu về khoản lợi nhuận lớn hơn trong tương lai.
Đối với một doanh nghiệp thì vốn đầu tư xuất hiện từ khi doanh
nghiệp còn chưa hình thành và sẽ tiếp tục phát triển đến khi nào doanh
nghiệp dừng hoạt động. Hiện nay, vốn đầu tư là một trong những nhân tố
tiên quyết trong sự phát triển của bất kì một doanh nghiệp nào
2. Nguồn vốn đầu tư :
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và
phân phối cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà
nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong
nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Xét về bản chất thì nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết
kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá
trình tái sản xuất xã hội.
Chuyªn ®Ò thùc tËp Hoµng TuÊn Khanh-§T43A
3. Các nguồn huy động vốn:
3.1. Vốn trong nước :
a. Nguồn vốn Nhà nước:
Bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp Nhà nước .
-Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân
sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Đây chính là
nguồn vốn dùng để đầu tư xây dựng các công trình công cộng, các hạng
mục công trình an ninh quốc phòng và đầu tư cho các cơ sở phúc lợi xã
hội Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu từ nguồn thu của ngân
sách Nhà nước thông qua việc thu thuế, bán tài nguyên, thu lệ phí
-Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Nền kinh tế đất
nước càng phát triển thì vốn tín dụng của Nhà nước càng đóng vai quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này có tác
dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà
nước. Với cơ chế này, các đơn vị sử dụng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn
trả vốn vay, vì vậy đòi hỏi các chủ đầu tư phải cân nhắc kĩ hiệu quả đầu
tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Thông qua nguồn vốn này, Nhà nước thực
hiện việc quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, thực hiện việc khuyến khích
phát triển kinh tế của các ngành, các vùng, miền. Góp phần tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại
hoá.
-Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp Nhà
nước là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, do vậy, các doanh
nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng lớn vốn. Đây chính là
nguồn vốn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế theo định
hướng của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, với chủ trương tiếp tục dổi mới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét