Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Mô hình hóa các nhân tố tác động tới khoảng cách giữa thành thị và nông thôn VN trong thời kỳ hội nhập kinh tế

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
CHƯƠNG 1: VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG
1. Thành tựu trong phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn đổi mới
và hội nhập kinh tế thế giới
Kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp kém, sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, lại trải qua thời gian dài chiến tranh vì vậy thời kỳ những năm 70,80 rất
kém phát triển với nền kinh tế vận hành theo cơ chế bao cấp. Hậu quả là thiếu
hụt những sản phẩm thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân, tình trạng trì trệ diễn
ra, nguy cơ khủng hoảng kinh tế hiện hữu. Nhận thức đuợc thực trạng đó, Đảng
ta khởi xướng quá trình Đổi mới tại đại hội VI năm 1986. Nền kinh tế đã có
những chuyển biến tích cực, nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi, lạm phát được
kiềm chế. Từ đầu những năm 1990 tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam luôn duy trì ở
mức cao (gần 8%/ năm) đứng thứ hai ở Châu Á, sau Trung Quốc.
Bảng 1: Số liệu tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn từ sau đổi mới
Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng /năm
1986- 1990 3.9%
1991- 1995 8.2%
1996 -2000 7.0%
2001- 2008 7.4%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
1.1. Giai đoạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới.
Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới mà bắt đầu là đổi mới cơ chế
quản lý. Trong thời gian này đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết định của
Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản lý kinh tế, chính sách tiền tệ, chính sách
nông nghiệp Những năm ngay tiếp sau đó Việt Nam đã liên tục thực hiện các
biện pháp cải cách mạnh mẽ:
+ Phi tập thể hóa nông nghiệp, tự do hóa giá cả.
+ Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
+ Mở cửa kinh tế, giảm thuế hải quan, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của
Nhà nước.
Tuy nhiên trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa
mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi mới chưa có hiệu quả đáng kể.
Trung bình trong 5 năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9%/năm.
Vào những năm cuối của thập kỷ 80, tình hình bắt đầu biến chuyển rõ rệt.
Riêng lĩnh vực nông nghiệp có sự tiến bộ đột biến. Năm 1988, Việt Nam đưa ra
chế độ khoán nông nghiệp, giao đất cho nông dân, lấy hộ nông dân làm đơn vị
kinh tế. Kết quả là nếu năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì năm
1989 xuất khẩu gạo đạt gần 1 triệu tấn và năm 1990 thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 3 trên thế giới với 1,5 triệu tấn. Một số ngành công nghiệp then chốt
như điện, thép cán, xi măng, dầu thô đạt mức tăng trưởng khá.
Giá trị xuất nhập khẩu bình quân tăng 28,0%/năm, tỷ lệ nhập siêu giảm
nhanh. Nếu trong các năm 19761980 tỷ lệ giữa xuất và nhập là 1/4 thì những
năm 1986  1990 chỉ còn 1/1,8. Một thành công lớn là siêu lạm phát đã được
kiềm chế và đẩy lùi (năm 1986 lạm phát là 774,7 %, thì năm 1987 là 223,1 %,
1989 là 34,7% và 1990 là 67,4%).
Thành công của công cuộc Đổi mới giai đoạn 1986 - 1990 là sản xuất
được phục hồi, kinh tế tăng trưởng, lạm phát bị đẩy lùi, và đặc biệt đã chuyển đổi
cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới tạo điều kiển những bước
chuyển biến các giai đoạn tiếp theo.
1.2. Giai đoạn 1991-1996: Đổi mới đạt kết quả quan trọng.
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đưa ra chiến
lược "Ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000" đồng thời đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1991-1995.
- Thời kỳ 1991 – 1995 cải cách kinh tế được tiếp tục tiến hành.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
- Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1/1991) tạo điều kiện cho
kinh tế tư nhân phát triển.
- Pháp Lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng đã
tạo khuôn khổ pháp luật cho hệ thống ngân hàng thương mại ra đời.
- Thâm hụt ngân hàng được giảm đáng kể và được bù đắp, hoàn toàn qua
công trái, trái phiếu kho bạc và vay nước ngoài. Việc tăng cung tiền và tín dụng
được xác định phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Luật Đất đai (7/1993) cho phép hộ gia đình và cá nhân được quyền sử
dụng đất với 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp. Khó
khăn lớn lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước
Đông Ấu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Song,
thời kỳ này Việt Nam cũng có những thuận lợi cơ bản: đường lối đổi mới bước
đầu phát huy tác dụng tích cực, các đơn vị kinh tế sau một thời kỳ khó khăn đã
dần thích nghi với cơ chế quản ký mới. Quá trình mở cửa hội nhập thu được kết
quả bước đầu: xuất khẩu dầu thô và gạo gia tăng, nguồn vốn ODA cho Việt Nam
bắt đầu thực hiện từ 1993 đến 1995 các nhà tài trợ đã cam kết giành cho Việt
Nam số vốn là 6 tỷ USD cũng đến cuối 1995 vốn FDI được cấp phép đăng ký là
16,5 tỷ USD. Mộ số thành tựu kinh tế nổi bật trong giai đoạn này là:
Cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi căn bản:
Trong nền kinh tế xuất hiện nhiều thành phần: quốc doanh, tư bản nhà
nước, tư bản tư nhân, hợp tác xã, cá thể trong đó kinh tế ngoài quốc doanh
chiếm 60% tổng sản phẩm trong nước.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao:
Trong 5 năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 8,2%.
Năm 1996 tăng 9,5%. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực phát
triển liên tục và vững chắc mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn lương thực. Sản xuất
công nghiệp đã từng bước thích nghi với cơ chế quản lý mới, bình quân mỗi năm
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
tăng 13,5%, là mức tăng cao nhất từ trước tới lúc đó. Sản xuất trong nước đã có
tích luỹ, đảm bảo trên 90 % quĩ tích luỹ và quĩ tiêu dùng hàng năm.
Từ 1991- 1995 có 1401 dự án FDI với 20,413 tỷ USD vốn đăng ký. Đây là
thời kỳ vốn FDI vào Việt Nam tăng cao nhất, khoảng 50%/năm. Về xuất khẩu,
trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm tăng 27%, gấp 3
lần tốc độ tăng GDP.
Đổi mới cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vu, giảm dần của khu vực nông, lâm ngư nghiệp. Cơ cấu vùng
kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trọng điểm, các
khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất và các vùng chuyên canh sản xuất
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp.
Lạm phát tiếp tục bị kiềm chế và đẩy lùi:
Thời kỳ này nhờ sản xuất phát triển, lưu thông hàng hoá thông thoáng lại
có thêm kinh nghiêm chống lạm phát mấy năm trước nên giá cả ổn định dần. Giá
hàng hoá và dịch vụ năm 1991 tăng 67,5 %; năm 1993 chỉ tăng 5,2 %; năm 1996
xuống 4,5%.
Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại:
Đến cuối năm 1996, Việt Nam có quan hệ kinh tế thương mại chính thức
với trên 120 nước, kim ngạch ngoại thương gia tăng nhanh chóng, bình quân trên
20%/năm. Nhiều nước và tổ chức quốc tế đã dành cho Việt Nam viện trợ không
hoàn lại hoặc cho vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam đã có những
chính sách, hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực, chủ động hội nhập với kinh tế
khu vực và thế giới, đa phương hóa và đa dạng hóa các mối quan hệ với các
nước, các tổ chức tài chính trên thế giới. Trong đó có các mốc quan trọng đáng
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
chú ý là: năm 1992, ký các hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với EU, năm
1994 Mỹ bình thường hóa quan hệ và xóa bỏ cấm vận với Việt Nam, năm 1995
gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
1.3. Giai đoạn từ 1996- 2000: Tiếp tục tăng cường đổi mới.
Nghị quyết đại hội Đảng lần VIII (7/1996) về kế hoạch 5 năm 1996 –
2000 đã chỉ rõ cấn phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng
bộ, tập trung phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển.
Thời kỳ này Việt Nam đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức : thiên tai
liên tiếp, gây những thiệt hại nặng nề, những tác động bất lợi từ khủng hoảng tại
chính tiền tệ khu vực, áp lực của việc thực hiện chương trình CFPT/AFTA. Để
tiếp tục đổi mới, nhiều chính sách liên quan tới môi trường đầu tư được ban hành
như luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, luật doanh nghiệp
mới.
Do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài có xu hướng giảm sút, Việt Nam đã tìm cách phát huy
nội lực của cả nền kinh tế. Từ giữa năm 1999 Chính phủ đã đề ra các giải pháp
đồng bộ về kích cầu thông qua đầu tư, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn trong
nước: bổ sung thêm vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và tín dụng ưu đãi. Phát
hành công trái và trái phiếu công trình, chỉ đạo các ngân hàng cho vay trung và
dài hạn, kể cả cho vay ngoại tệ để nhập thiết bị.
Cũng do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực và thiệt hại do thiên
tai, bão lụt, tốc độ tăng trưởng kinh tế sau khi đạt 9.5% (năm 1995) đã bắt đầu
giảm dần, đến năm 1999 chỉ đạt 4.8% là mức thấp nhất sau hơn 10 năm đổi mới.
song nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đã không để xảy ra những
biến động lớn về môi trường vĩ mô và ổn định được đời sống nhân dân. Nền kinh
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
tế vẫn có những dấu hiệu đáng mừng như công tác thu hút và giải ngân vốn ODA
đã có tiến bộ dần qua các năm. Từ năm 1993-1999 Việt Nam đã giải ngân được
6,3 tỷ USD, chiếm hơn 40% so với nguồn ODA đã được cam kết. Việt Nam cũng
đã dần nối lại quan hệ với cộng đồng thế giới (nối lại viện trợ quốc tế) và liên tục
ký kết nhiều hiệp định thương mại với nước ngoài góp phần đẩy nhanh quá trình
tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế được khởi động cùng chính sách đổi mới:
- Năm 1998 Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), điều này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho quan hệ thương mại
của Việt Nam với các nước trong khu vực.
- Năm 2001, Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ
(United States Bilateral Trade Agreement – USBTA), Hiệp định này đã mở cửa
thị trường Mỹ cho hàng hóa Việt Nam (tuy nhiên, vẫn áp dụng hạn ngạch), hàng
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ được áp dụng quy chế tối huệ quốc từ
năm 2002 trong khuôn khổ áp dụng Hiệp định này, mức thuế quan trng bình áp
dụng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam đa giảm từ 40% xuống còn 3 – 4%, đổi
lại Việt Nam cũng cắt giảm thuế quan với hàng nhập khẩu từ Mỹ và đưa ra nhiều
cam kết về mở cửa cho đầu tư từ Mỹ.
1.4. Giai đoạn 2001-2005
Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua Chiến
lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Phương hướng, Nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 nhằm đẩy nhanh hơn nữa tốc
độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng phát triển xã hội của đất nước.
Chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995.
Để được như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm
2001-2005 phải đạt 7,5%, trong đó dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%,
công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Về kinh tế đối ngoại,
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
phấn đấu nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Cơ cấu kinh tế trong
GDP đến năm 2005 sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
với mục tiêu tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%, tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng khoảng 38 - 39%, và tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%.
Thực hiện đường lối chính sách đó, Việt Nam đã tập trung cải cách hành
chính và tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, mở rộng hợp tác quốc tế,
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, nhờ đó kinh tế Việt
Nam tiếp tục duy trì được sức phát triển tương đối nhanh và ổn định.
Kết quả đạt được là tốc độ tăng trưởng GDP vẫn duy trì được xu hướng
tăng dần, mức tăng bình quân trong cả thời kỳ đạt 7,55/năm. Công nghiệp là
ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất, đạt trên 10% mỗi năm. Tốc
độ tăng của lĩnh vực dịch vụ đạt xấp xỉ tốc độ tăng GDP, trong khi giá trị sản
xuất nông nghiệp phục hồi trở lại với mức tăng trên 4% sau khi sụt giảm xuống
mức gần 3% năm 2001 (do biến động giá sản phẩm nông nghiệp trên thị trường
thế giới). Với mức tăng như vậy, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa, năm 2002 tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng
23%GDP, công nghiệp đạt cao nhất 38,6% và dịch vụ 35,5%.
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, kinh tế nhà nước tiếp tục được
đổi mới, tuy còn chậm nhưng đã từng bước nâng cao hiệu quả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Các hình thức đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng đã đa
dạng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình này.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan
trọng. Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực
hiện tốt, đồng thời ký kết nhiều hiệp định đa phương, song phương, tạo bước
phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Việt Nam đã ký kết và gia nhập khu vực mậu
dịch tự do AFTA của ASEAN vào năm 2003, điểu này đã mang lại nhiều thuận
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
lợi cho hàng hóa của Việt Nam khi lưu thông trên thị trường các nước trong khu
vực. Cũng nhờ đó thị trường xuất khẩu đã được duy trì và mở rộng, tổng kim
ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 chiếm
trên 60% GDP và đạt 390 USD/ người. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
liên tục tăng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có chuyển biến tích cực qua từng
năm và bước đầu đã có dự án đầu tư ra nước ngoài. Vay trả nợ nước ngoài được
quản lý tốt. Công tác chính trị đối ngoại được tăng cường, thực hiện tốt đường lối
đối ngoại đoạc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, mở rộng quan hệ với các
nước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.
Bên cạnh đó những chú trọng của Chính phủ nhằm giải quyết các vấn đề
xã hội đã đem lại được những kết quả đáng mừng. Công tác giải quyết việc làm,
xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động.
Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn đạt 80%. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ
30%năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1
USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993
xuống còn 28,9% năm 2002. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quam
tâm và có nhiều tiến bộ. Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới
trung bình (0,498) năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002;
năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra. Mạng lưới y tế
được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công
nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung
bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
1.5. Giai đoạn 2006-nay:
Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng là một nước nghèo, GDP bình quân đầu
người chưa cao, vấn đề đặt ra là phải phát triển nhanh về kinh tế đi đôi với phát
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
triển hài hoà các mặt của xã hội, đảm bảo cải thiện mọi mặt đời sống của người
dân, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển lâu bền cho thế hệ mai sau, trên cơ
sở đó mục tiêu xoá đói giảm nghèo mới có thể tiếp tục thực hiện tốt. Chính vì
vậy, Việt Nam đã tập trung thực hiện một số giải pháp vĩ mô, giữ vững môi
trường kinh tế- xã hội ổn định, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo ra bước đột phá về
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để phát triển nền
kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm: năm 2006 GDP tăng 8.2%, năm 2007
tăng 8.48%, năm 2008 tăng 6.23%.
Chúng ta đã thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Xuất
khẩu, nhập khẩu tăng trưởng cao và ổn định, nguồn vốn FDI đổ vào nước một
cách tương đối vững chắc đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế rất mạnh mẽ. Tỷ trọng
của xuất khẩu trong GDP những năm gần đây đã đạt gần 50% trong khi tỷ trọng
của khu vực FDI trong GDP cũng đạt tới gần 14% .Đầu năm 2007, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của WTO sau hơn 10 năm đàm phán và 20 năm kể
từ khi thực hiện chính sách đổi mới. Là thành viêc của WTO, Việt Nam được
hưởng quy chế tối huệ quốc của tất cả các nước thành viên khác (được xóa bỏ
hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu), đồng thời Việt Nam cũng phải áp dụng các
quy định của WTO. Sự kiện gia nhập WTO là kết tinh của một quá trình bền bỉ
cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam, mở đầu cho một thời kỳ phát
triển mạnh mẽ thương mại quốc tế. Quá trình mở cửa hội nhập đã cho thấy sản
phẩm của Việt Nam có thể cạnh tranh và tìm chỗ đứng ở nhiều thị trường quốc
tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt ở hơn 100 nước trên thế giới, trong đó các thị
trường chủ yếu là Hoa Kỳ (18%), EU (17%) và ASEAN (16,8%). Kim ngạch
nhập khẩu cũng đã tăng 38 lần, từ 2,1 tỷ USD năm 1986 lên trên 80 tỷ USD năm
2008, tăng trưởng với tốc độ bình quân 16,1%/năm. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu
phục vụ hoạt động sản xuất, bình quân chiếm gần 90% tổng kim ngạch nhập
khẩu trong giai đoạn 1986-2008, trong đó nhập máy móc thiết bị chiếm gần 30%,
nhập khẩu nguyên vật liệu chiếm gần 60%. Hàng hóa được nhập khẩu từ khoảng
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
trên 200 nước, nhưng chiếm thị phần lớn nhất vẫn là hàng có xuất xứ từ
ASEAN5, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, EU.
Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước và tốc độ tăng trưởng theo giá
so sánh của Việt Nam từ 2000 đến nay
Năm GDP (tỷ đồng)
Tôc độ tăng trưởng
GDP(%)
2000
273666 6.79
2001
292535 6.89
2002
313247 7.08
2003
336242 7.34
2004
362435 7.79
2005
393031 8.44
2006
425373 8.23
2007
461443 8.48
2008
490191 6.23
Biểu đồ 1: GDP thực tế và tốc độ tăng trưởng Việt Nam
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét