Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nghĩa, thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà
nước, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề đầu tư
của Nhà nước vào doanh nghiệp Nhà nước trong điều kiện mới như: Nghị định số
50/ HĐBT ban hành điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị dịnh số
27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí nghiệp Với cơ chế thị trường, mà
giai đoạn đầu là kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, một yêu cầu có tính nguyên
tắc căn bản là phải đảm bảo quyền tự do và sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh,
trong đó nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể
thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định quan điểm
quản lý kinh tế bằng pháp luật, vì vậy Nhà nước Việt Nam đã ban hành và từng
bước xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật mới về đầu tư như: Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1987 (sửa đổi bổ sung và ban hành mới vào các năm 1990, 1992,
1996, 2000), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 (được thay
thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và sau này là Luật Doanh nghiệp năm
2005); Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 (được thay thế bởi Luật Doanh
nghiệp Nhà nước năm 2003); Luật Hợp tác xã năm 1996 (đã được thay thế bởi
Luật hợp tác xã năm 2003); Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994 (đã được
thay thế bởi Luật sửa đổi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998); Nghị
định số 52/1999 NĐ - CP ngày 08/7/1999 ban hành kèm theo Quy chế quản lý
đầu tư và xây dựng Các văn bản pháp luật này cùng với các văn bản hướng dẫn
thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan, đã tạo thành một hệ thống pháp
luật về đầu tư với phương pháp, nội dung điều chỉnh mới, quy định các vấn đề
pháp lý về đầu tư trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
như tự do, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh Điều này đã góp phần không nhỏ
vào việc tăng cường hiệu quả huy động vốn đầu tư trong thời gian qua.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam ở thời kỳ
này là có sự phân chia thành hai lĩnh vực: Đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài để điều chỉnh. Cụ thể như sau:
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.1.1. Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Cùng với chủ trương huy động tối đa nguồn lực trong nước, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đồng thời thực hiện chính sách tăng cường hợp tác kinh tế quốc
tế. Trong việc tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, việc mở rộng thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Điều lệ đầu tư ban
hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 là văn bản pháp lý riêng
biệt đầu tiên được ban hành nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Theo quy định tại điều 1 Điều lệ này, Chính
phủ Việt Nam “chấp thuận đầu tư trực tiếp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và
các bên cùng có lợi”. Điều lệ đầu tư đã tạo ra một khung pháp lý ban đầu cho
hoạt động đầu tư nước ngoài, làm tiền đề cho những ý tưởng và là cơ sở cho
những bước cải cách sau này. Tuy nhiên do Điều lệ đầu tư năm 1977 đã thể chế
hoá chính sách quản lý kinh tế bao cấp nên còn thiếu các quy định cụ thể cho
việc thi hành như các quy định về ngân hàng, quản lý ngoại hối, đất đai, lao
động, tài nguyên Do đó chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ, môi trường pháp
lý đồng bộ, có hiệu quả cao và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài cũng như cho
hoạt động đầu tư nói chung. Ngày 29/12/1987 tại kỳ họp thứ hai khoá VII,
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời kỳ này, đầu tư nước ngoài được coi là biện
pháp quan trọng để mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới nhằm
“khai thác có hiệu quả tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước”
để “đẩy mạnh xuất khẩu”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được
soạn thảo trên nguyên tắc rút kinh nghiệm Điều lệ đầu tư năm 1977 xuất phát từ
thực tiễn của Việt Nam, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên
thế giới. Các quy định của luật đã thể hiện vai trò, vị trí, tác dụng của việc đầu
tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân. Ngay sau khi ra đời, Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã có ảnh hưởng mạnh tới việc xây dựng
hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế mới với nhiều
thành phần kinh tế. Tuy nhiên qua một thời gian thực hiện, Luật Đầu tư nước
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong việc thi
hành cũng như bản thân nội dung luật. Cụ thể là với các đối tác trong nước Luật
mới chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, hạn chế về
kinh tế tư nhân. Các văn bản dưới luật chưa được ban hành kịp thời. Mặt khác,
Luật ra đời vào thời điểm Việt Nam chưa có các đạo luật cơ bản về kinh tế, do
đó, môi trường pháp lý cho đầu tư nước ngoài nói chung còn tiềm ẩn của sự
thiếu ổn định.
Nhằm khắc phục hạn chế nêu trên ngày 30/6/1990 Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng “khuyến khích và tạo thêm
điều kiện thuận lợi” cho các dự án đầu tư nước ngoài. Với những sửa đổi lần
này, các quy định của luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn cho các đối tác trong nước được hưởng
những điều kiện tương tự để mở rộng hợp tác với nước ngoài. Vấn đề về “mọi
thành phần kinh tế” trong đó có kinh tế tư nhân lần đầu tiên được quy định một
cách rõ nét: “Các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với
tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng bộ trưởng
quy định”. Luật cũng khẳng định chính sách của Nhà nước Việt Nam nhằm đáp
ứng lợi ích của các bên. Nhà nước Việt Nam không những đảm bảo an toàn cho
vốn đầu tư mà còn giảm thuế để bảo đảm lợi nhuận cho các nhà đấu tư khi tỷ
suất của họ thấp hơn so với các xí nghiệp khác trong ngành, khuyến khích các
nhà đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến và đầu tư số vốn lớn vào Việt Nam,
khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
Đến năm 1992, sau hai năm triển khai thực hiện Luật, nhiều vấn đề pháp
lý đã phát sinh, phần nào làm cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. Vì vậy để đạt
được mục tiêu kinh tế – xã hội đã đặt ra Việt Nam cần phải tiếp tục sửa đổi và
hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Thực hiện chủ trương nêu trên, ngày
23/12/1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
nhằm mở rộng cho mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia hợp tác với nước
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
ngoài trong lĩnh vực đầu tư. Trong lần sửa đổi này, vấn đề tư nhân tham gia hoạt
động đầu tư với nước ngoài được nêu một cách cụ thể hơn, rõ ràng hơn và có
tính khả thi hơn. Bên Việt Nam là “một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế” gồm:Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, các
doanh nghiệp được thành lập theo luật Công ty, doanh nghiệp tư nhân được
thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 đã bổ sung một số hình
thức đầu tư nước ngoài mới, hình thức khu chế xuất và hợp đồng xây dựng –
kinh doanh – chuyển giao. Đồng thời, Luật cũng khẳng định rằng, trong trường
hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích
của các bên tham gia hợp tác đầu tư thì Nhà nước Việt Nam sẽ “có biện pháp
giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”.
Năm 1996, khi Việt Nam bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, hệ thống pháp luật về đầu tư
nước ngoài đã bộc lộ nhiều nhược điểm cần khắc phục. Mặt khác, cùng với quá
trình xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đồng bộ, từ năm 1994, một số luật
mới lần lượt được ban hành, trong đó môi trường đầu tư, kinh doanh được quy định
chặt chẽ hơn và đi cùng với hệ thống này, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
cũng cần được sửa đổi , bổ sung trên cơ sở quán triệt đường lối nhất quán , nhằm
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước Việt Nam: “bảo hộ quyền sở
hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài;
tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam”. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 12/11/1996 thể hiện chủ trương của Nhà nước đối với việc cải
cách các thủ tục hành chính. Luật lần này được sửa đổi theo hướng giảm bớt một
số ưu đãi. Những sửa đổi này, cùng với những quy định chặt chẽ hơn của một số
luật kinh tế khác đã góp phần làm giảm sút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Nhằm khắc phục tình trạng nêu trên, đồng thời góp phần tăng cường tính
hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư, chặn đà giảm sút của đầu tư nước
ngoài, thực hiện tốt các dự án đã được cấp phép đầu tư và thu hút thêm đầu tư
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
mới, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, ngày 09/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa, bổ sung,
đổi mới và hoàn thiện quy định của các luật đã ban hành, các nội dung sửa đổi,
bổ sung của Luật đã đem lại cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam sự ổn định và thông thoáng hơn so với nhiều quy định trước đây. Các quy
định này có tác dụng khuyến khích hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng
như các đối tác trong nước tham gia đầu tư. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 được ban hành đã tháo gỡ
kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kinh doanh, mở rộng tự
chủ trong tổ chức quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; bổ
sung một số ưu đãi về thuế đối với dự án đầu tư nước ngoài.
Qua gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật đầu tư
trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đã được hoàn thiện từng bước. Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung liên tục (từ năm 1987 –
2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam và các bộ, ban.
ngành đã ban hành một số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành hệ
thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, điều chỉnh khá toàn diện hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. So với pháp luật nhiều nước khác trong khu
vực, pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam được coi
là khá thông thoáng, cởi mở và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
mà trực tiếp nhất là thực hiện các thoả thuận trong Hiệp định đầu tư khu vực
ASEAN, Hiệp định thưong mại Việt Nam – Hoa Kỳ, pháp luật về đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế cần phải khắc phục. Sự
chưa hoàn thiện và thiéu đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư nói riêng và của
toàn bộ hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nói chung là trở
ngại lớn nhất đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc tăng cường hợp tác
kinh tế quốc tế tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Pháp luật về đầu
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
tư của Việt Nam đứng trước yêu cầu phải vận động theo xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế, phù hợp với pháp luật đầu tư thế giới
1.1.2. Pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước
Trước khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời, chính sách về đầu
tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn cần được khuyến khích và ưu đãi đầu tư
tuy đã được quy định trong một số văn bản của Nhà nước, nhưng chưa đầy đủ,
còn phân tán chưa thành hệ thống chặt chẽ, đồng bộ nên chưa tạo điều kiện để
nhân dân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Đồng thời, cho đến khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành ,
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã ban hành dược hơn 6 năm (từ năm 1987)
và đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần (vào năm 1990 và 1992) có quy định về ưu đãi
cho các nhà đầu tư nước ngoài, nên trong chừng mực nhất đã tạo ra tình trạng
kinh doanh không bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc hội thông qua ngày
22/6/1994 là văn bản có tính pháp lý đầu tiên điều chỉnh toàn diện các quan hệ
chủ yếu về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam. Văn bản này ra đời
khẳng định về mặt pháp lý ở tầm văn bản có hiệu lực cao, tư tưỏng độc lập, tự
chủ , tự lực, tự cường của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong phát triển kinh tế.
Vốn đầu tư nước ngoài tuy quan trọng nhưng đối với toàn bộ quá trình phát
triển, vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết định. Việc huy động vốn đầu tư
trong nước không chỉ nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế mà còn làm tăng thêm
sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài vào chính sách kinh tế của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Khuyến khích đầu tư trong nước có hiệu quả cũng là gián
tiếp thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước ra đời có tác dụng động viên mọi
nguồn vốn tiềm tàng của nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành và vùng theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và mức
sống của nhân dân.
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên qua quá trình thực hiện, Luật cũng đã bộc lộ một số hạn chế,
như môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ
khuyến khích và ưu đãi chưa thật hấp đẫn, các nhà đầu tư chưa thật yên tâm nên
chưa mạnh dạn bỏ vốn vào những lĩnh vực, ngành, nghề và địa bàn, nhất là ở
những vùng còn nhiều khó khăn cũng như đối với các dự án đầu tư chiều sâu,
mở rộng quy mô sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm Điều này đã hạn chế
việc phát huy nội lực để phát triển kinh tế – xã hội, tăng thêm nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần các
văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Từ đòi hỏi của thực tiễn, nhằm tiếp tục tạo môi trường pháp lý thuận lợi,
khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp và nhân dân phát huy nội lực,
đẩy mạnh đầu tư có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội
của Nhà nước; bảo đảm thực hiện bình đẳng, đồng bộ các chính sách, biện pháp
khuyến khích ưu đãi đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo
động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc huy động các nguồn trong nước, góp
phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công
nghệ và tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngày 20/5/1998, Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước (sửa đổi)
Trong lần sửa đổi này, Luật bổ sung cam kết của Nhà nước Việt Nam đối
với tài sản và vốn hợp pháp của nhà đầu tư không bị tịch thu bằng biện pháp
hành chính, quy định lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư được “bảo lưu” trong
trường hợp thay đổi quy định của pháp luật không có lợi cho nhà đầu tư; sửa
đổi, bổ sung quy định về hỗ trợ đất đai cho các nhà đầu tư, hỗ trợ tín dụng, một
số hình thức hỗ trợ khác ; bổ sung hình thức đầu tư trong nước thông qua hợp
đồng hợp tác kinh doanh, bổ sung quy định chuyển quyền sở hữu trí, bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ và dịch vụ - kỹ thuật là tài sản để góp vốn đầu tư xây
dựng dây chuyền sản xuất, cải thiện môi trường sinh thái, di chuyển cơ sở sản
xuất ra khỏi đô thị, đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Kể từ khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 (sửa đổi
năm 1998) số lượng dự án đầu tư gia tăng không ngừng, số lượng vốn tư nhân
đưa vào đầu tư và số việc làm mới được tạo ra ngày càng nhiều. Qua 9 năm thực
hiện Luật này, đã có trên 1,5 triệu chỗ làm mới được tạo ra nhờ các dự án được
cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Riêng kinh tế dân doanh, đã tạo ra hơn 1
triệu việc làm trực tiếp và hàng nghìn việc làm gián tiếp khác. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, còn không ít những tồn tại chưa được giải
quyết như: hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, về thủ tục
hành chính, về phân cấp đầu mối cơ quan quản lí đầu tư
1.2. Pháp luật đầu tư Việt Nam từ khi ban hành Luật Đầu tư năm 2005
1.2.1. Mục đích, yêu cầu sửa đổi pháp luật đầu tư và ban hành Luật Đầu
tư chung
Thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư như: Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp, Luật
Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Dầu khí, Luật Xây dựng, Luật
Đất đai, Luật Ngân sách Nhà nước các đạo luật đã tạo nên một khung pháp lý
quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến hoạt động đầu tư phù hợp
với đường lối, quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, cũng
như phù hợp với yêu cầu của quá trình hội nhập, góp phần tạo môi trường đầu tư
thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, việc huy động nguồn lực đầu tư
cho tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, thể hiện hiệu quả của các chính sách
mới, của hệ thống pháp luật về đầu tư đã ban hành. Tổng vốn đầu tư được huy
động và đưa vào nền kinh tế trong 5 năm qua đạt khoảng 986 ngàn tỉ đồng bằng
khoảng 118,2% dự kiến kế hoạch huy động.
Việc ban hành và thực thi Luật Doanh nghiệp Nhà nước cùng các chương
trình hành động của chính phủ, các đề án sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả của Doanh nghiệp Nhà nước, đã khẳng định vai trò Doanh nghiệp Nhà
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nước đã và đang tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển các
ngành và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Trong năm 2001-2005
vốn đầu tư thuộc khu vực Nhà nước là 526 ngàn tỷ đồng, chiếm 53,3% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, (bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước chiếm 22,8%; vốn tín
dụng Nhà nước chiếm 13,3%; vốn đầu tư doanh nghiệp Nhà nước chiếm
17,7%).
Luật Doanh nghiệp năm 1999 được đánh giá như một bước đột phá như
cả về tư duy kinh tế lẫn xây dựng và thực thi luật. Theo đó, người dân, doanh
nghiệp được tự do kinh doanh trong tất cả những ngành nghề mà pháp luật
không cấm. Cùng với sự ra đời và thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước, cho tới nay có 150 ngàn doanh nghiệp dân doanh mới được thành lập góp
phần nâng tỉ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước lên mức 26,7%
tổng vốn đầu tư phát triển năm 2004; tạo ra hàng triệu việc làm mới.
Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm1987 và đã dược sửa đổi bổ
sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và năm 2000 đã tạo môi trường pháp lý
ngày càng hấp dẫn cho việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Tính đến hết năm 2004, trên địa bàn cả nước có trên 5300
dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng kí trên 47 tỷ USD, vốn
đầu tư hiện thực đạt 31 tỷ USD. Năm 2004, khu vực đầu tư nước ngoài
chiếm17% tổng vốn đầu tư xã hội, tạo ra trên 14,5% GDP của cả nước chiếm
gần 37% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và gần 54,6% kim ngạch xuất
khẩu (số liệu của Bộ Kế hoạch - Đầu tư năm 2005)
Tuy nhiên, do văn bản quy định về đầu tư được ban hành một cách riêng
rẽ, có nhiều vấn đề còn thiếu nhất quán, trong các quy định còn có sụ phân biệt
đối xử giữa các nhà đầu tư và các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế nên đã hạn chế việc huy động và các nguồn lực kể cả nguồn lực trong
nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, thời gian vừa qua, Việt Nam đã ký kết và
triển khai nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến hoạt động
đầu tư, trong đó đòi hỏi Việt Nam phải từng bước mở cửa thị trường, xoá bỏ các
rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các trợ cấp không phù hợp với các cam
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
kết quốc tế. Do đó, yêu cầu khách quan đặt ra là Việt Nam phải tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phù hợp với nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng đơn giản, minh bạch, nhất quán, xoá bỏ
sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; xây dựng trình
tự, thủ tục đơn giản thuận lợi không chỉ cho các nhà đầu tư mà cho cả cơ quan
Nhà nước nhằm bảo đảm chính sách đến được các nhà đầu tư, tạo lòng tin cho
nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế hăng hái, tự tin sử dụng mọi nguồn lực
cho đầu tư, kinh doanh.
Những yêu cầu mới của sự nghiệp đổi mới sâu rộng nền kinh tế, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập quốc tế đã và đang đặt
ra những đòi hỏi khách quan đối với việc cần thiết phải xây dựng một Luật Đầu
tư chung nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội ; cụ thể:
Một là - Nghị quyết Trung ương 9 đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu
của nước ta so với thế giới và khu vực, đưa Việt Nam ra khỏi nhóm nước đang
phát triển có thu nhập thấp. Do đó, trong những năm tới, nhu cầu vốn đầu tư cho
phát triển là rất lớn. Để đạt được GDP tăng gấp đôi vào năm 2010, sơ bộ ước
tính nhu cầu tổng vốn đầu tư phát triển của kế hoạch 05 năm 2006 – 2010
khoảng 1580 – 1960 ngàn tỷ đồng tương đương 117 – 124 tỷ USD chiếm 38%
GDP. Đây là một nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt đầy đủ
đường lối, chủ trương của Đảng được khẳng định trong Đại hội Đảng IX, đặc
biệt Nghị quyết Trung ương 9 (Khoá IX): gắn huy động nguồn nội lực và ngoại
lực, gắn cải cách trong nước với hội nhập để tận dụng cơ hội và vượt qua thử
thách trong giai đoạn tới; điều đó một mặt đòi hỏi phải xây dựng đồng bộ và
hoàn thiện cơ bản thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
mặt khác cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và các giải pháp
đồng bộ nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; trong đó có việc
phải xây dựng một Luật Đầu tư áp dụng thống nhất nhằm đảm bảo quyền bình
đẳng, tự do đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo sự hấp dẫn
các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét