Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

-Thực hiện các kế hoạch cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo, cải
thiện điều kiện, bảo đảm môi trường sinh thái, bảo đảm sức khoẻ người dân.
-Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu, chuyển đổi hệ thống kinh tế, bù đắp thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế để chính phủ nước sở tại có điều kiện và thời gian quản lý tốt
hơn trong giai đoạn cải cách hệ thống tài chính hay chuyển đổi hệ thống kinh tế.
Tóm lại nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức được ưu tiên cho những
dự án kinh tế xã hôị không sinh lời trực tiếp hoặc khả năng thu hồi vốn chậm, nhưng
có ý nghĩa và ảnh hưởng quan trọng đến việc tạo lập một môi trường thuận lợi cho
sự phát triển đất nước nói chung và cho sự khuyến khích đầu tư tư nhân trong và
ngoài nước nói riêng.
2.3, Các nhân tố ảnh hưởng tới ODA.
ODA gắn liền với chính trị và là một trong những phương tiện để thực
hiện ý đồ chính trị. ODA cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ sẵn có của bên cấp
viện trợ cho nước nhận viện trợ bởi sự tương hợp về thể chế chính trị, bởi quan hệ
địa dư gần gũi. Bên cấp viện trợ và các nguồn vốn chính thức khác thường cấp viện
trợ cho những người bạn về chính trị và đồng minh quân sự mà không cấp viện trợ
cho những đối tượng mà họ cho là kẻ thù. Đó chính là tính chất địa lý- chính trị
được thể hiện rất rõ trong viện trợ.
ODA gắn với điều kiện kinh tế. Các nước viện trợ nói chung đều muốn đạt
được những ảnh hưởng về chính trị, đem lại lợi nhuận cho hàng hoá và dịch vụ tư
vấn trong nước. Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ của nước họ
như là một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và
giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh toán. Mặt khác, nước nhận
viện trợ còn phải chịu rủi ro của đồng tiền viện trợ. Nếu đồng tiền viện trợ tăng giá
so với đồng tiền của các nước nhận được do xuất khẩu thì nước tiếp nhận sẽ phải trả
thêm một khoản nợ bổ sung do chênh lệch tỷ giá tại thời điểm vay và thời điểm trả
nợ. Theo tính toán của các chuyên gia thì cho dù không đi kèm theo điều kiện ràng
buộc nào thì viện trợ vẫn đem lại lợi ích thương mại cho quốc gia viện trợ.
Trang 5
ODA còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố xã hội. ODA là một phần GNP
của các nước tài trợ nên rất nhạy cảm với các dư luận xã hội ở các nước tài trợ.
Nhân dân các nước cấp viện trợ coi trọng tầm quan trọng của cả số lượng và chất
lượng của viện trợ, họ sắn sàng ủng hộ viện trợ với điều kiện là viện trợ được sử
dụng tốt. Còn đối với các nước nhận viện trợ, nguy cơ phụ thuộc viện trợ nước
ngoài, gánh nặng nợ nần là một thực tế khó tránh khỏi. Do vậy,các nước nhận viện
trợ cần phải rất thận trọng khi sử dụng ODA.
3, Phân loại ODA.
3.1, Phân loại theo nước nhận.
Nếu phân loại theo nước nhận, ODA có hai loại:
-ODA thông thường: hỗ trợ cho những nước có thu nhập bình quân đầu
người thấp.
-ODA đặc biệt: hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay
ngắn, lãi suất cao hơn.
3.2, Phân loại theo nguồn cung cấp.
Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại.
- ODA song phương: là viện trợ phát triển chính thức của nước này dành
cho chính phủ nước kia.
- ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế
hay tổ chức khu vực hoặc của một chính phủ môt nước dành cho chính phủ một
nước nào đó, nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như
UNDP,UNICEF
3.3, Phân loại ODA theo tính chất nguồn vốn.
Nếu phân loại theo tính chất nguồn vốn thì ODA có hai loại:
- Viện trợ không hoàn lại: được thực hiện thông qua các chương trình, dự
án ODA dưới các dạng sau:
Trang 6
• Hỗ trợ kỹ thuật: Thực hiện việc chuyển giao công nghệ hoặc truyền
đạt những kinh nghiệm xử lý cho nước nhận tài trợ.
• Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật: ví dụ như là lương thực, vải, thuốc
chữa bệnh, có khi là vật tư cho không.
- Viện trợ có hoàn lại bao gồm:
• ODA cho vay ưu đãi: là các khoản ODA cho vay có yếu tố không
hoàn lại đạt ít nhất 25% trị giá khoản vay.
• ODA cho vay hỗn hợp: bao gồm kết hợp một phần ODA không
hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ
chức hợp tác kinh tế và phát triển mạnh hơn cả về đời sống kinh tế xã
hội.
4. Các hình thức ODA.
ODA được thực hiện qua các hình thức sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: được thực hiện thông qua chuyển giao tiền tệ
trực tiếp cho nước nhận ODA hoặc hỗ trợ nhập khẩu tức là chính phủ nước nhận
ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các khoản cam kết,
bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ.
- Tín dụng thương mại: tương tự như viện trợ hàng hoá có kèm theo các
điều kiện ràng buộc.
- Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án). Theo loại hình này nước nhận
viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định chính xác
khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
- Viện trợ dự án: loại viện trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn
thực hiện ODA và nó có hai loại. Đó là viện trợ cơ bản và viện trợ kỹ thuật. Viện trợ
cơ bản thì thường cấp cho những dự án xây dựng đường xá, cầu cống, kết cấu hạ
tầng . Viện trợ kỹ thuật cấp cho viện trợ tri thức, tăng cường cơ sở, lập kế hoạch cố
vấn cho các chương trình, nghiên cứu trước khi đầu tư hoặc hỗ trợ các lớp đào tạo.
Trang 7
II, Vai trò của viện trợ trong phát triển kinh tế xã hội .
1, Viện trợ tài chính ở các nước đang phát triển có cơ chế quản lý tốt sẽ
giúp tăng trưởng nhanh hơn, giảm tình trạng nghèo đói và đạt được các chỉ
tiêu xã hội.
Trên thực tế, một số nước nhận nhiều viện trợ mà thu nhập giảm trong khi
một số nước nhận ít viện trợ mà thu nhập lại tăng. Nhưng nếu chỉ xét đến sự phân
biệt giữa các nước có cơ chế quản lý tốt và cơ chế quản lý tồi thì đối với các nước
có cơ chế quản lý tồi, dù số tiền viện trợ là bao nhiêu thì tăng trưởng vẫn thấp, thậm
chí còn âm. Đối với các nước có cơ chế quản lý tốt, khi viện trợ tăng lên 1% GDP
thì tốc độ tăng trưởng tăng lên 0,5%. Ngoài ra, viện trợ còn góp phần làm giảm đói
nghèo. Theo các chuyên gia về ODA, bình quân ở các nước đang phát triển, thu
nhập đầu người tăng 1% đã dẫn đến tỷ lệ đói nghèo giảm xuống 2%. Nói cách khác,
ở các nước có cơ chế quản lý tốt, khi viện trợ tăng lên 1% GDP thực tế thì sẽ giảm
1% tỷ lệ đói nghèo. Và ở các nước có cơ chế quản lý tốt, tăng 10 tỷ USD viện trợ
một năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng dù có tăng
10 tỷ USD ở các nước có cơ chế quản lý tồi thì cũng chỉ cứu được 7 triệu người
thoát khỏi cảnh kiếm ăn lần hồi mà thôi.
Viện trợ tác động đến tăng trưởng, từ đó đã tác động đến mục đích nâng
cao mức sống. Tăng trưởng không loại bỏ đói nghèo nhưng rõ ràng tăng trưởng có
tác động lớn đến cải thiện các chỉ tiêu xã hội. Nếu một nước có cơ chế quản lý tốt
thì khi viện trợ tăng lên 1% GDP sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong trẻ em 0,9%. Ngược lại,
nếu một nước có cơ chế quản lý tồi thì khi viện trợ tăng lên 1% GDP cũng không
đem lại một tác động nào đối với tỷ lệ chết trẻ sơ sinh. Điều đó có nghĩa là các chỉ
tiêu xã hội có quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu người, hay nói cách khác
nó có quan hệ chặt chẽ với viện trợ.
2, Viện trợ thúc đẩy đầu tư.
Các nước đang phát triển là những nước rất cần vốn cho đầu tư phát triển,
và viện trợ chính là một hình thức bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Vốn đầu tư
có thể thu hút từ các nguồn ODA, FDI hoặc nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế. Trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước ngoài có
Trang 8
tầm quan trọng đặc biệt. Nguồn vốn ODA thường được các nước đang phát triển
đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng đường giao thông, phát triển
năng lượng vì đây là những ngành cần phải đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm nên tư
nhân không có khả năng đầu tư.
Viện trợ còn thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và phát
triển nguồn nhân lực. Nhờ có viện trợ mà nước nhận tài trợ với cơ chế quản lý tốt sẽ
tạo ra được cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội vững chắc, giao thông thuận tiện, hệ thống
pháp luật ổn định, viện trợ là sự chuẩn bị cho vốn đầu tư trực tiếp được thu hút vào
là điều kiện cho FDI được sử dụng một cách hiệu quả. Mặt khác, viện trợ còn giúp
những nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại,
trình độ quản lý tiên tiến, kỹ năng chuyên môn cao. Đây chính là lợi ích căn bản, lâu
dài của quốc gia nhận tài trợ.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân. Ở những nước có cơ chế quản lý tốt thì
viện trợ nước ngoài không thay thế cho đầu tư tư nhân mà đóng vai trò như là nam
châm hút đầu tư tư nhân theo tỷ lệ sấp xỉ 2 USD trên 1USD viện trợ. Đối với các
nước quản lý tốt thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin cho khu vực tư nhân và hỗ
trợ các dịch vụ công cộng. Viện trợ tăng với quy mô 1% GDP sẽ làm tăng đầu tư tư
nhân trên 1,9% GDP. Ở các nước có cơ chế quản lý tồi, viện trợ nước ngoài có thể
khuyến khích khu vực nhà nước tiến hành các khoản đầu tư thương mại đáng ra do
khu vực tư nhân thực hiện.
3, Viện trợ giúp các nước đang phát triển cải thiện thể chế và chính sách
kinh tế.
Cải thiện thể chế và chính sách kinh tế ở những nước đang phát triển là
chìa khoá để tạo bước nhảy vọt về lượng trong thúc đẩy tăng trưởng, tức là góp
phần làm giảm đói nghèo. Mặt khác, viện trợ có thể nuôi dưỡng cải cách. Khi các
nước mong muốn cải cách thì viện trợ nước ngoài có thể đóng góp những nỗ lực cần
thiết như hỗ trợ thử ngiệm cải cách, trình diễn thí điểm, tạo đà và phổ biến các bài
học kinh nghiệm. Những nước mà ở đó chính phủ thực hiện những chính sách vững
chắc phân bổ hợp lý các khoản chi tiêu và cung cấp dịch vụ có hiệu quả cao thì hiệu
quả chung của viện trợ là lớn. Ngược lại, ở những nước mà chính phủ và nhà tài trợ
Trang 9
không đồng nhất quan điểm trong việc chi tiêu, hiệu quả lại thấp thì các nhà tài trợ
cho rằng cách tốt nhất là giảm viện trợ và tăng cường hỗ trợ cho việc hoạch định
chính sách và xây dựng thể chế cho đến khi các nhà tài trợ thấy rằng viện trợ của họ
sẽ đóng góp cho sự phát triển. Qua đây ta cũng nhận thấy rằng giá trị thực của các
dự án là ở chỗ thể chế và chính sách được củng cố, cải thiện việc cung cấp dịch vụ
xã hội. Việc tạo ra được kiến thức với sự trợ giúp của viện trợ sẽ dẫn tới sự cải thiện
trong một số ngành cụ thể trong khi một phần tài chính của viện trợ sẽ mở rộng các
dịch vụ công cộng nói chung.
Cơ chế quản lý tốt, ổn định kinh tế vĩ mô, Nhà nước pháp quyền và hạn
chế tham nhũng sẽ dẫn đến tăng trưởng và giảm đói nghèo. Qua các nghiên cứu của
các chuyên gia có thể thấy khó có thể nhận ra mối quan hệ giữa viện trợ mà các
nước nhận được với trình độ chính sách của họ. Tuy không có mối quan hệ về lượng
giữa viện trợ và chất lượng chính sách của nước nhận viện trợ nhưng trong một số
trường hợp viện trợ vẫn có thể góp phần cải cách, thông qua các điều kiện đặt ra
hoặc thông qua việc phổ biến ý tưởng mới.
Tóm lại, viện trợ đã và đang có hiệu quả. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA chỉ
phát huy hết vai trò của nó khi có một cơ chế quản lý tốt, một thể chế lành mạnh và
một môi trường chính trị hoàn thiện. Nếu không chẳng những ODA không phát huy
vai trò của nó mà còn đem lại gánh nặng nợ nần cho đất nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển, hiện đang mong muốn nhận được
nhiều nguồn ODA và quản lý sử dụng ODA thật hiệu quả phục vụ cho phát triển đất
nước. Việt Nam cần nhận thức rõ được vai trò của ODA, các điều kiện để ODA phát
huy vai trò của nó để từng bước hoàn thiện công tác thu hút, quản lý và sử dụng
ODA.
Trang 10
C HƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TIẾP NHẬN VÀ SỬ DỤNG ODA TẠI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
I, Cơ chế chính sách và khuôn khổ thể chế .
1, Cơ chế chính sách.
Từ sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường. Là một nước nông nghiệp
lạc hậu với thu nhập đầu người thấp, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn hạn chế, để đạt
được mục tiêu đề ra về phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn của nước ta rất lớn,
đặc biệt là các nguồn vốn từ nước ngoài trong đó có nguồn vốn ODA. Văn kiện đại
hội Đảng 8 đã chỉ rõ: “ Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức đa
phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và quản lý, đồng thời dành một
phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành nông- lâm ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu
dùng, ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm phát triển, các dự
án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm
trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng
nguồn vốn ODA có hiệu quả và có kiểm tra, quản lý chặt chẽ chống lãng phí tiêu
cực".
Nhờ thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại, kể từ năm 1993 Việt Nam đã chính thức lập quan hệ ngoại giao và tiếp nhận
được nhiều nguồn ODA từ các quốc gia, các tổ chức Quốc tế trên thế giới. Khối
lượng ODA vào Việt Nam không ngừng tăng lên qua các năm. Trong giai đoạn
1996-2000 mục tiêu đặt ra về vận động nguồn vốn ODA cam kết là trên 10 tỷ USD.
Trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA, để có thể khai thác triệt để thế
mạnh của ODA cũng như hạn chế những tác động xấu do ODA mang laị, Đảng và
nhà nước ta đã đưa ra hệ thống các quan điểm về quản lý và sử dụng ODA.
Trang 11
Hệ thống các quan điểm của Đảng và nhà nước về quản lý và sử dụng
ODA.
Quan điểm 1: ODA là một nguồn ngân sách. Việc điều phối quản lý và sử
dụng ODA cho có hiệu quả thuộc quyền hạn của Chính phủ và phải phù hợp với các
thủ tục quản lý ngân sách hiện hành.
Quan điểm 2: Tranh thủ các nguồn vốn ODA không gắn với các ràng buộc về
chính trị, phù hợp với chủ trương đa phương hoá đa dạng hoá, quan hệ kinh tế đối
ngoại ở Việt Nam.
Quan điểm 3: Phối hợp sử dụng ODA cùng với nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn trong nước khác.
Quan điểm 4: Ưu tiên sử dụng ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế.
Quan điểm 5: Đầu tư vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế có trọng tâm
trọng điểm.
Quan điểm 6: Ưu tiên bố trí viện trợ không hoàn lại cho các dự án văn hóa xã
hội ở miền núi, vùng sâu vùng xa trên cơ sở định hướng chung và các quan điểm,
mục tiêu của việc thu hút và quản lý sử dụng ODA.
Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 1996, Chính phủ Việt Nam
đã đưa ra ba định hướng ưu tiên trong giai đoạn 1996-2000 nhằm kêu gọi sự chú ý
của các nhà tài trợ như sau:
- Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
- Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thể chế.
- Chuyển giao công nghệ.
Với ba hướng ưu tiên nói trên, nguồn ODA đã và sẽ sử dụng để trợ giúp
thực hiện 11 chương trình phát triển kinh tế xã hội đề ra trong kế hoạch 5 năm
1996-2000, tập trung vào một số lĩnh vực như sau:
Trang 12
• Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn: Đây là một lĩnh vực ưu
tiên đầu tư chính của Việt Nam. Các lĩnh vực ưu tiên để phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn là chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, giải quyết các vấn đề đời sống xã
hội, việc làm, xoá đói giảm nghèo và xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn.
• Trong lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam là một nước kém phát triển, đặc biệt
là về công nghiệp. Việt Nam dự kiến dành một phần ODA để xây dựng các nguồn
điện lớn, khôi phục và phát triển các trạm và hệ thống đường dây phân phối, nhất là
ở các thành phố, thị xã, thị trấn.
• Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở: ODA đặc biệt được ưu tiên cho phát triển hạ
tầng cơ sở, trước hết cho khôi phục và nâng cấp các tuyến trục đường quốc gia như
quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 10 Phát triển giao thông nông thôn cũng được ưu tiên
nhất là cho các tỉnh biên giới, miền núi, các tuyến đường đến các huyện xa xôi hẻo
lánh.
• Ưu tiên phát triển nhân lực và thể chế sẽ được thể hiện ở việc ưu tiên sử
dụng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo, bao gồm cả giáo dục phổ thông,
dạy nghề và đại học, đặc biệt chú trọng nâng cao trình độ giáo viên và cải cách
chương trình đại học, tăng cường trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
• Trong lĩnh vực văn hoá xã hội: Sẽ sử dụng ODA từ nhiều nguồn để trợ
giúp thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, chương trình dân số và
kế hoạch hoá gia đình, chương trình tiêm chủng mở rộng
2, Khuôn khổ thể chế.
2.1, Giai đoạn trước năm 1993.
Trước 1993 Việt Nam chưa nối lại quan hệ với các tổ chức Quốc tế do Mỹ
cấm vận và do quan niệm sai lầm cho rằng ODA là khoản cho không nên khối lượng
ODA đến Việt Nam không lớn, hệ thống quản lý ODA chủ yếu là không có hiệu quả.
Trong thời kỳ này, Văn phòng Chính phủ là cơ quan đầu mối quản lý ODA
phối hợp với một số cơ quan khác như Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ
Trang 13
Ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng chức năng và nhiệm vụ của các
cơ quan liên quan này chưa được xác định rõ ràng. Trong suốt thời gian này không
có quy chế rõ ràng về đấu thầu, mua sắm và giải ngân. Các dự án ODA chủ yếu được
thực hiện theo quy chế của từng nhà tài trợ cụ thể.
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét