Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó
tiếp cận hơn thị trường kinh doanh trong nước. Bởi vì thị trường xuất khẩu
vượt qua phạm vi biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn,
phức tạp hơn, có nhiều nhân tố ràng buộc hơn.
Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán
qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả.
Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán
vận chuyển, ký kết hợp đồng… đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Nói
tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra
nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể
có thể đem lại hiệu quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng
chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro hơn.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia được thực hiện bởi các
đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua doanh nghiệp
ngoại thương. Do vây, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các
quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia.
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Là một nội dung chính của thương mại quốc tế và là hoạt động đầu tiên
trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng
trong qúa trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế
giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế quốc gia:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn lớn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ở các nước phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng
trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước
5
ngoài được coi là nguồn vốn chủ yếu của họ trong quá trình phát triển. Nhưng
mọi cơ hội đầu tư hoặc cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và quốc tế
chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất
khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính để đảm bảo nước này có thể trả nợ
được.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế
giới đã, đang và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế :
- Coi thị trường là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm
này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Cụ thể là:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn
định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động thương mại
quốc tế cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng
lớn hơn nhiêù lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó.
+ Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật
công nghệ từ các quốc gia phát triển nhằm tạo điều kiện hiện đại hoá nền kinh
tế nội địa và tạo năng lực cho sản xuất mới.
+ Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu
quả sản xuất của tưng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì
phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà
việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn
thiện được những sản phẩm này, người ta phải xuất khẩu linh kiện từ nước
6
này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không
nhất thiết phải sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá của mình cần, mà thông
qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế,
sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
- Một cách nhìn khác lại cho rằn, chỉ sản xuất những hàng hoá thừa trong
tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triể,
sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của
sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do
đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm
cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu
lao động thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người
lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đáp
ứng nhu cầu hàng ngày phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động
qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là
hình thức ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác
như du lịch quốc tê, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… phát triển theo.
Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu phát triển.
7
2.2 Đối với doanh nghiệp .
Với bất kỳ một doanh nghiệp nàothì công ác tiêu thụ hàng hoá cũng là
một hoạt động cần thiết để nhằm kết thúc chu kỳ kinh doanh. Nhờ hoạt động
tiêu thụ hàng hoá mà doanh nghiệp mới thu hồi vốn kinh doanh để tạo nguồn
tài chính, bù đắp được chi phí bỏ ra và có lãi để tiếp tục thực hiện và mở rộng
hoạt động kinh doanh.
Tiêu thụ hàng hoá là hoạt động chủ yếu nhất của doanh nghiệp thương
mại. Không có hoạt đông tiêu thụ hàng hoá sẽ không có doanh nghiệp thương
mại.Bởi vậy trong doanh nghiệp thương mại các hoạt động như: marketing,
hậu cần, tài chính đều là hoạt động mang tính mang tính hỗ trợ và việc đạt
mục tiêu nàyđảm bảo cho hoạt đông tiêu thụ đạt được mục tiêu đề ra. Tiêu thụ
hàng hoá là hoạt động tạo ra mối quan hểtực tiếp giư2ã doanh nghiệp thương
mại vàkhách hàng của mình trong và ngoài nước. Do đó thông qua hoạt đông
này doanh nghiệp có thể tạo lập được uy tín của mình đối với khách hàng
trong và ngoài nước từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rông thị phần,
tăng thế lực kinh doanh của doanh nghiệp trên thương trường.
Với các nà quản trị trong doanh nghệp thương mại, hoạt động tiêu thụ
hàng hoá vừa mang tính chất đúng đắn của các quyết định quả trị như: quyết
định về kế hoạch, phương án tiêu thụ, phương thức xuất khẩu, quyết định về
vốn, nhân lực ) cho chúng ta thấy được kết quả mang lại từ các quyết định
thông qua doanh số thu về.
Vì vậy, có thể nói hoạt đông tiêu thụ hàng hoá giống như một tấm gương
chiếu dọi mọi hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp, nó phản ảnh đầy đủ
những điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp.
2.3. Một số đặc thù của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá được coi là hoạt đông tiêu thụ hàng hoá ra thị trường
nước ngoài. Việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá ra thị trường nước
ngoài góp phần tăng thu ngoại tệ cho doanh nghiệp. Đông thời cũng tạo cho
sự phát triển hạ tầng cơ sở là một mục tiêu quan trong của chính sách thương
8
mại. Như vậy có thể khẳng định rằng xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán
hàng của doanh nghiệp vượt ra khỏi biên giới quốc gia thông qua hợp đồng
kinh tế đã ký kết giữa các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế với nhau hay giữa
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế rong nước với tổ chức kinh tế chính trị của
nước ngoài hoặc giữa các chính phủ với nhau.
hoạt động xuất khẩu hàng hoácó những đặc điểm riêng biệt so với hoạt
động tiêu thụ trong nước:
- Chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quóc tế về
thương mại quốc tế, luật các quốc gia có các bạn hàng của doanh
nghiệp, tập quán thương mại quốc tế
- Các phưong thức giao dịch mua bán trên thị rườngquốc tế rất phong
phú đó là giao dịch thông thường, giao dịch trung gian, buôn bán đối
lưu
- Mọi hoạt động xuất khẩu phải thông qua hợp đông ngoại thương bằng
các văn bản. Phương thức thanh toán rất đa dạng có thể bằng thanh toán
tín dụng chứn từ hay bằng các phương thứcc khác như nhờ thu, séc bảo
chi. séc chuyển khoản. Và tiền tệ dùng cho thanh toán thường là các
ngoại tệ mạnh như USD, FSF, DEM, GBP,
- Điều kiện cơ sở giao hàng có rất nhiều hình thức như: FOB, CIS, CFR,
CFA Ngoài ra, trong kinh doanh quốc tế hoạt động xuất khẩu hàng
hoá là hoạt động mà quy mô về thị trường rất rộng, thủ tục phức tạp,
thời gian thực hiện lâu. Vì vậy có thể xẩy ra nhiều rủi ro đối với hàng
hoá xuất khẩu. Để đề phòng rủi ro doanh nghiệp có thể mua bảo
hiểmtương ứng. chi phí mua bảo hiểmcó thể do bên bán hoặc bên mua
trả tuỳ thuộc vào điều khoản ghi trong hợp đồng.
9
I. NỘI DUNG CỦA QUẢN TRỊ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở
CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm quản trị và các chức năng của quản trị
a) khái niệm
Tuỳ theo mục đích gnhiên cứuvà tiếp cận mà khái niệm quả trị được hiểu
theo nhiều cách khác nhau. Theo một cách chung nhất quản trị được hiểu là
tổng hợp các hoạt động khác nhau được thực hiện nhằm mục đích đạt được
mục tiêu đã xác định thông qua sự nỗ lực phấn đáu thực hiện của người khác.
b) Chức năng quản trị
Quản trị có bốn chức năng đó là: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
soát
* Hoạch định: Là việc ra quyết định cho các hoạt động cho tương lai. Nó
bao gồm các hoạt động sau:
- Xác định mục tiêu của doanh nghiệp.
- Xác định chính sách, các chương trình và các thủ tục cần thiết nhằm đạt
được mục tiêu đã xác định.
- Xác định các giai đoạn mà doanh nghiệp phải trải qua trong quá trình
tiến tới mục tiêu.
- Xác định các phương tiện cần thiết và cần phải có để đối tương quản trị
đạt được mục tiêu.
Như vậy, hoạc định được hiểu là một quá trình hành đọng trong hiện tại
nhưng hướng tới tương lai.
* Tổ chức: Là việc xác định mô hình, phân công lao động, giao nhiệm vụ
cho mỗi thành viên trong nội bộ đối tượng quản trị. Nó bao gồm cả việc phân
công và giao nhiệm vụ cho mỗi cấp, mỗi thành viên trong doanh nghiệp để họ
thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất
* Lãnh đạo: Là toàn bộ những hoạt động được thực hiện nhằm làm cho
đối tượng quản trị vận động và thực hiện mục tiêu đã xác định, tạo ra bầu sinh
khi trong công việc, trong tổ chức. Yếu tố tạo ra sinh khí được quan tâm là vì
10
nó tồn tại lâu dài, bên lâu là nguồn gốc tạo nên sức mạnh giúp doanh nghiệp
tồn tại. Lãnh đạo bao gồm các nội dung sau:
- Huấn luyện.
- Các hoạt động duy trì kỷ luật.
- Gây ảnh hưởng hứng thú.
- Gây bầu không khí tin cậy và đoàn kết
- Tìm ra các biệnu pháp kích thích người lao đông làm việc với hiệu suất
lao động cao.
* Kiểm soát: Là việc kiểm tra giám sát quá trình vận hành đi đến mục
tiêu.Kiểm soát bao gồm việc thiết lập các tiêu chuẩn đo lường lượng hoá với
các tiêu chuẩn đã đạt được so sánh kết quả đó với các tiêu chuẩn đã đề ra và
tiến hành các hoạt động điều chỉnh cần thiết trong trường hợp có sự sai lẹch
giữa kết quả đạt được với tiêu chuẩn.
Bất kỳ một nhà quản trị nào cũng cần phải thực hiện đầy đủ bốn chức năng
trên. Giữa các chức năng đó có sự phân biệt tương đối nhưng lại có mối liên
hệ qua lại bổ sung, liên hệ và qui định lẫn nhau. Trên thực tế, chúng được
thực hiện đồng thời đan xen quyện chặt với nhau và trở thành công việc
thường xuyên hàng ngày của nhà quản trị.
Để thực hiện đầy đủ bốn chức năng này đòi hỏi nhà quản trị phải có tài
năng, khả năng lãnh đạo và cái tài gây hứng thú cho người khác sẵn sàng làm
công tác của mình. Nhiệm vụ của nhà quản trị là phối hợp mục tiêu của các
công sự dưới quyền và các bộ phận trong tổ chức doanh nghiệp với các mục
tiêu chung của doanh nghiệp
2. Nội dung của quản trị xuất khẩu hàng hoá:
Quản trị tiêu thụ hàng hoá nói chung và quản trị hoạt động xuất khẩu hàng
hoá nói riêng trong doanh nghiệp có thể hiểu là hoạt động quản trị của những
người thuộc lực lưỡng bán hàng hay những người hỗ trợ trực tiếp cho lực
lượng bán hàng cho doanh nghiệp.
11
Quản trị xuất khẩu nhằm mục đích làm thế nào để tiêu thụ hàng hóa ở thị
trường nước ngoài một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Từ đó doanh nghiệp
thu hồi được vốn kinh doanh để tái đầu tư cho hoạt động kinh doanh ở qui mô
cao hơn với việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Trong doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, quản trị hoạt động xuất
khẩu là một vấn đề quan trọng nhất của công tác quản trị kinh doanh. Để quản
trị xuất khẩu đạt kết quả tốt các nhà quản trị phải tiến hành công việc sau:
2.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đến với
bất kỳ một công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên
cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh nhận ra
được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi
nhu cầu, hàng cung ứng giá cả thị trường. Qua đó giúp các nhà kinh doanh
giải quyết được những vấn đề thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị
trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị
trường so sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu
hướng vận động của thị trường. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý
đưa ra được những nhận định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch
marketing.
Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập
và mở rộng thị trường. Việc nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai
bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường.
- Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ
cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như môi
trường kinh doanh, các yếu tố ảnh hưởng thị trường như môi trường kinh
doanh, môi trường chính trị, luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường văn
hoá xã hội, môi trường sinh thái …
12
- Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những chi tiết thông tin về tập
quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng
của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai phương
pháp chính: phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại
hiện trường.
Phương pháp nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu bằng cách
thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai và xử lý
thông tin đó. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông
tin chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông
tin thu thập được. Thông thường nghiên cứu tại hiện trường bao gồm các
công việc sau:
- Phân tích tình hình cung: trước hết cần nắm sơ tình hình cung, đó là
toàn bộ khối lượng hàng hoá đã, đang và có khả năng bán ra trên thị trường.
Cần xem xét giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm
của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị trường, xem xét tính cạnh tranh của
mặt hàng đó.
- Phân tích tình hình cung cầu: Từ những thông tinh về hàng hoá đang
bán trên thị trường cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại
hoá được.
Vì vậy cần xác định:
+ Người tiêu dùng là ai, tuổi, giới tính, nghề nghiệp.
+ Lý do mua hàng của khách hàng.
+ Nhịp điệu mua hàng của khách hàng
+ Ai đó có khả năng trở thành người tiêu dùng hàng hoá của công ty
+Sản phẩm của công ty liệu có kéo dài được chu kỳ sống hay không.
-Phân tích những điều kiện của thị trường : Phải phân tích cẩn thận tất cả
nhưng điều kiện mà việc thương mại hoá sản phẩm của công ty có thể gặp
như về cơ chế quản lý, về tài chính, kỹ thuật, về con người và tâm lý…
13
- Lựa chọn đối tác buôn bán: Để lựa chọn các đối tác buôn bán có hiệu
quả nên tìm hiểu các nội dung sau:
+ Quan điểm kinh doanh của đối tác
+ Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
+ Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của họ
+ Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ
+ Những người chịu trách nhiệm trong kinh doanh và phạm vi trách
nhiệm của họ đối với công ty.
2.2.Lập phương án kinh doanh:
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường, đơn vị kinh doanh phải lập phương án kinh doanh cho mình.
Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt được những mục
tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xác định phương án kinh doanh bao
gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng
quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự
lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có
liên quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán là bao
nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
- Đề ra biện pháp và công cụ thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu: Những
biện pháp này bao gồm đầu tư vào sản xuất, cải tiến mẫu mã bao bì hàng hoá,
ký hợp đồng kinh tế, tham gia hội chợ quốc tế, tổ chức quảng cáo, mở rộng
mạng lưới đại lý, lập chi nhánh ở nước ngoài…
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh tế thông qua các
chỉ tiêu cơ bản như:
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét