Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Lạm phát

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368

xp
S = (1)
V
S: Số tiền cần thiết trong lu thông
P: Giá trị đơn vị của hàng hoá
X: Lợng hàng hoá
V: Số vòng quay của đồng tiền
xp: Biểu thị tổng giá cả
Vậy số lợng tiền cần thiết trong lu thông bằng tổng giá cả chia cho số vòng
quay của đồng tiền
Con số vòng quay của đồng tiền (V): Đối với một ngời, một gia đình hoặc
một xí nghiệp kinh doanh ngời ta đã đề xuất cách tính. Nhng trong toàn bộ nền
kinh tế quôc dân thì V là "một con số mơ hồ" do vậy S cũng là "một con số mơ
hồ". Bỏ qua thực tế trên và coi nh công thức (1) đợc hoàn toàn xác định, ngời ta
dựa vào đó để nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát (Tỷ lệ lạm phát)
S - S
= . 100% (2)
S
S: Là lợng tiền đã phát hành
S - S: Là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ lệ
giữa số tiền phát hành quá mức cầu cần thiết so với lợng tiền cần thiết. Bằng toán
học ta cũng có thể chứng minh đợc rằng, nếu giữ nguyên vòng quay của đồng tiền
(V) thì lợng tiền phát hành tăng lên bao nhiêu phần trăm, chỉ số giá cả tăng lên bấy
nhiêu phần trăm nh vậy tỷ lệ lạm phát cũng là tỷ lệ tăng giá.
Giai đoạn hai: Từ sau năm 1890 đến những năm trớc 1950, lạm phát đợc coi
là tình trạng cầu lớn hơn cung, dới góc độ tài chính đó là chi lớn hơn thu thì lúc
này chỉ số lạm phát đợc tính theo công thức sau:
Chi - Thu
= . 100%
Thu
Theo quan điểm này, cứ xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu thì xảy ra lạm
phát, và vì có nhiều hình thức thu chi khác nhau: Thu chi ngân sách, thu chi tiền
mặt, tín dụng nên cũng có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát: Lạm phát ngân
sách, tiền tệ, tín dụng
Nh vậy khái niệm ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp nhất
trong khái niệm lạm phát của giai đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên nhân lịch
sử của nó, đó là từ lúc phôi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến khi
kết thúc chiến tranh thế giới II. Các nớc gây chiến tranh cũng nh các nớc tham
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
chiến đều tăng chi tiêu lên gấp bội. Nhng sau chiến tranh đó bị tàn phá nặng nề về
ngời và của, sản xuất ngừng trệ nguồn thu giảm nghiêm trọng. Cho nên chênh lệch
thu chi trong giai đoạn này ở nhiều nớc đã gây lên khủng hoảng về tài chính và
tiền tệ, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng. Để bù đắp thâm hụt ngân sách chính phủ
của các nớc này chẳng còn cách nào khác là phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt,
làm cho lợng tiền giấy ngày càng tăng, gây ra sự mất giá của đồng tiền và lạm phát
xảy ra.
Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp chống
lạm phát chủ yếu ở đây là tăng thu giảm chi làm cân bằng ngân sách. Tăng thu chủ
yếu nhờ chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách đầu t để
thu hút vốn vay, phát hành công trái hoặc xin viện trợ Còn giảm chi chủ yếu nhờ
chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt buộc, giảm quân đội, giảm
biên chế hành chính, tinh giảm bộ máy nhà nớc và hạn chế đầu t
Giai đoạn 3: Từ những năm 1950 đến năm 1972
Trong giai đoạn này lạm phát đợc đồng nhất với sự tăng giá. Cho đến nay một
số tạp chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này. Nh chúng ta đã biết năm 1986
chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% điều đó có nghĩa là chỉ số giả cả cuối năm
1986 gấp 7 lần chỉ số giá cả đầu năm 1986. Nh chúng ta đã biết vấn đề giá cả là
một vấn đề rất phức tạp, nó luôn luôn biến động. Tất cả các vấn đề phức tạp về
kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đối nội, đối ngoại đều liên quan đến vấn đề giá.
Nh vậy việc tăng giá không chỉ do nguyên nhân phát hành tiền quá mức, do chênh
lệch cung cầu hay bội chi mà nó còn mang nhiều nguyên nhân khác mang ý nghĩa
phi tài chính, phi tiền tế nh sự ảnh hởng của tình hình chính trị-xã hội hay do sự
tác động của các công ty độc quyền. Khi chúng nâng cao giá cả sản phẩm của
mình.
Nh vậy tiến bộ của giai đoạn thứ ba là nêu nên đợc vấn đề mấu chốt nhất của
vấn đề lạm phát là vấn đề tăng giá mà trớc đó ngời ta chỉ coi nó nh một hiện tợng
hay một hậu quả của lạm phát.
Giai đoạn thứ t : Từ năm 1972 đến nay. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện
đáng ghi nhớ
Khi tiền vàng bị rút khỏi lu thông, chấm dứt việc đổi tiền tín dụng lấy vàng
thì lạm phát có tính chất phổ biến và kinh niên, nó thờng xảy ra cùng với sự suy
thoái của sản xuất do khủng hoảng gây ra, với nạn thất nghiệp tăng lên là một hiện
tợng mới của nền kinh tế t bản chủ nghĩa từ những năm 60 và nó đợc gọi là lạm
phát suy thoái. Những xu hớng này đặc biệt thể hiện rõ trong điều kiện của cuộc
khủng hoảng sâu sắc những năm 74-75, khi mà khối lợng sản xuất giảm sút và nạn
thất nghiệp tăng lên mạnh mẽ đã kéo theo tình trạng giá cả và lạm phát tăng lên
không gì ngăn cản nổi. Lo sợ những hậu quả phá hoại về kinh tế-xã hội của lạm
phát, nhà nớc đế quốc chủ nghĩa đang cố gắng điều chỉnh nó. Tuy nhiên tính
không ổn định thờng xuyên của nền kinh tế t bản chủ nghĩa, kể cả trong lĩnh vực
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
tài chính tín dụng của nó, cuộc khủng hoảng của hệ thống tiền tệ đang làm cho
lạm phát trở thành một hiện tợng kinh niên của thế giới t bản chủ nghĩa và các nớc
xã hội chủ nghĩa hiện nay. Và suy cho cùng, nó phá vỡ những cơ sở của chủ nghĩa
t bản và làm cho các mâu thuẫn đối kháng về kinh tế -xã hội ngày càng trở nên gay
gắt.
Tóm lại, ta có thể đi đến khái niệm lạm phát nh sau:Lạm phát là hiện tợng tiền
giấy tràn đầy các kênh lu thông tiền tệ, vợt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho
tiền bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, vàng và ngoại tệ và thể hiện là
sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. mức giá trung bình th-
ờng lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở và muốn đợc lạm phát
phải tính đợc chỉ số giá tiêu dùng. Công thức tính có thể đợc viết nh sau:
Ip=ip. d
Trong đó: Ip chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá
ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hoá đó.
d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hoá nhóm hàng hoá trong giỏ.
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Khác với chỉ số
gia tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn(giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động của giá
cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. ở Việt Nam hiện nay,
chỉ số đợc dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng(tính theo hàng năm,
quý, tháng).
2. Tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát là thớc đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và
sự biến động của nó phản ánh xu hớng và quy mô của lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát đợc tính theo công thức:
gp=(Ip/Ip-1-1). 100%
Trong đó:
gp: tỷ lệ lạm phát(%)
Ip: chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu
Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trớc đó.
Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên
mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lợng hàng hoá
cần thiết đã dự định. Nh vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân tiền tệ
thực tế
Nhng trong thực tế thì lợng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ lệ
lạm phát cũng đợc tính bằng mức tăng lợng cung tiền danh nghĩa trừ đi mức tăng
nhu cầu tiền thực tế.
Theo lý thuyết định lợng đơn giản nói rằng:Do thu nhập thực tế và lãi suất th-
ờng chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu thực tế thờng cũng
chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lợng tiền danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản
nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
đổi một cách chậm chạp tơng ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập luận
cơ bản của lý thuyết định lợng về tiền tệ là ở chỗ các biến số thực tế thờng thay đổi
một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất lớn trong một biến danh nghĩa(lợng
tiền danh nghĩa)phải kéo theo những thay đổi rất lớn trong các đại lợng danh nghĩa
khác(giá cả và tiền lơng)để duy trì lợng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng
của chúng.
3. Quy mô lạm phát.
Trong thực tế t bản chủ nghĩa, ngời ta thờng phân biệt lạm phát lan dần biểu
hiện ở sự tăng giá cả liên tục và thờng xuyên và lạm phát lan nhanh trong đó giá cả
tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm khu vực này
hay khu vực khác của thế giới t bản chủ nghĩa mà lạm phát đợc chia thành lạm
phát thế giới bao trùm một nhóm nớc và lạm phát cục bộ chỉ phát triển trong phạm
vi một nớc. Và tuỳ theo mức độ của tỉ lệ lạm phát mà ngời ta chia lạm phát thành
ba loại sau:lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
a. Lạm phát vừa phải.
Xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dới 10%/năm.
Hiện ở phần lớn các nớc t bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa phải. Trong điều
kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thờng xấp xỉ bằng mức tăng tiền lơng
hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá hoặc mất giá không
lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền
kinh tế.
b. Lạm phát phi mã
Xảy ra khi giá cả tăng tơng đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một
năm. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng; khi các hợp đồng kinh tế đợc ký kết theo các chỉ số giá
hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng lên rất
nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá hoặc đồng
ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng có thể phất lên
và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm chí phải
chuyển hớng sản xuất kinh doanh.
c. Siêu lạm phát
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vợt xa lạm
phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu
lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một đến mời
triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thờng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu
sắc. Nó phá vỡ quy luật lu thông tiền tệ, lu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã
hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển đợc.
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988
lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trng của nền kinh
tế tập trung quan liêu bao cấp.
II. Thực trạng lạm phát ở nớc ta hiện nay.
Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là
thời kỳ 1986-1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập
trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lợng, sút kém về số lợng nhng nhu cầu
lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu luôn tăng vợt
tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát luôn ở mức 3 con
số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình hình bất ổn định nh
vậy, lạm phát càng tăng cao thì lòng tin của ngời dân vào đồng tiền càng giảm sút.
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế chính phủ đã đa ra hai
thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đa tỷ giá hối đoái lên ngang giá thị trờng
và thi hành chế độ lãi suất thực dơng nhằm mục tiêu đa lại giá trị thực cho đồng
tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi
phục lòng tin trong nhân dân đối với đồng tiền. Từ đó các quan hệ thị trờng đã đợc
hình thành và làm cơ sở để từng bớc mở rộng quan hệ hành hoá trên phạm vi quốc
tế.
Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hớng mạnh sang cơ chế thị tr-
ờng , các chính sách đổi mới quản lý nh thực hiện tự do hoá giá cả, thả nổi tỷ giá
chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách Đặc biệt là cải
cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành
phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập trung
kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nớc, từ đó đã cắt nhanh đợc cơn sốt lạm
phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và số thu trong năm 1991 so
với 1990 là 32, 4 %.
Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động xung quanh
mức 12%/năm nhng ta vẫn cha có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong muốn.
Năm 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm xuống còn 5,3% (trong
khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự giảm phát này là do giữa năm
1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá cả rất rẻ so với hàng hoá nội địa
và cũng do nền kinh tế nớc ta đang trong xu hớng giảm phát. Đến năm 1994, trận
lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng nề đối với nền nông nghiệp nớc ta đặc biệt
là nguồn lúa, do vậy mà giá cả lơng thực đã tăng vọt lên đồng thời giá thực phẩm
cũng tăng cao, đẩy lạm phát tăng lên 14, 4%, và ảnh hởng cả sang năm 1995.
Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-công
nghiệp hoá và dự kiến có tốc độ tăng trởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn định
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng. Công cụ
chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ hợp lí: tăng l-
ợng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng ngày càng
có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù đắp thâm hụt
ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách trên tỉ lệ lạm phát đã giảm
xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát là 4, 5% đợc coi là mức thấp
nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện giảm phát (từ tháng 5 dến tháng
8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm) cụ thể là theo số liệu của tổng cục
thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0, 6%, so với tháng 3/1997 đây là
tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm. Trong đó nhóm hàng lơng thực
giảm mạnh nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm 1%, giá các nhóm hàng phi lơng
thực - lơng thực tơng đối ổn định. Giá vàng tiếp tục giảm 1, 1%, giá đô la lại tang
1% so với tháng 3/1997.
Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với tháng
4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4 tháng đầu
năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì của nhiều năm
trớc.
Với số liệu thực tế nh vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đa ra một vài nhận
xét sau:
+Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nông thôn giảm sút, quan hệ tỉ giá
cánh kéo doãng ra bất lợi cho nông thôn, hàng hoá ứ đọng, thị trờng kém sôi động,
nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm hẳn xuống.
Sang năm 1997 hiện tợng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu năm.
+ Xu hớng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996 (vào
tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy thợc trạng
giảm phát trên cần đợc đánh giá, phân tích một cách thận trọng nhằm hạn chế
những tác động ảnh hởng đến sản xuất kinh doanh.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng nh trên, thông
thờng chỉ thích ứng với các nớc có nền kinh tế phát triển. Còn đối với các nớc cha
phát triển, nhất là đối với nớc ta đang trong giai đoạn đầu tạo lập và phát triển nền
kinh tế thị trờng thì đó cha hoàn toàn là nhân tố tích cực và phù hợp. Vậy nguyên
nhân chính của tình hình trên là nh thế nào?
Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bớc vào thời
kỳ thu hoạch chính vụ, lu lợng trên thị trờng dồi dào, song tiến độ mua vào mua
vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá nhanh và liên
tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân c giảm rõ rệt,
nhịp độ tăng trởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hoá nông sản chủ yếu ở đây
là lúa, gạo và hạt điều thô vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu thụ. Mà khó khăn chủ
yếu là sự thiếu vốn cũng nh đầu ra bị hạn chế của các cơ sở sản xuất và chế biến,
xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12 tháng liên tục (Từ tháng
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm tăng 1, 5%. Thế mà lãi suất
vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên 1%/tháng. Nh vậy liệu họ vay vốn làm
ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán đợc hay không? Vì vậy
hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí là ngân hàng thừa vốn với khối lợng lớn mà các
doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng.
Thứ 2 là việc kiểm soát nhập khẩu còn thiếu chặt chẽ, kiên quyết nên đã dẫn
đến tình trạng hàng ngoại tràn ngập, cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong n-
ớc, làm cho các doanh nghiệp vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặc dù ngay
từ dầu năm 1997, Thủ tớng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về danh mục mặt hàng
xuất khẩu và công tác điều hành nhập khẩu quy định rõ các danh mục và số lợng
hàng hoá nhập khẩu. Song trên thực tế hàng ngoại vãn chiếm một thị phần đáng
kể nh:xi măng, phân bón, giấy, sắt thép
Thứ ba là những tháng đầu năm, giá cả thị trờng thế giới cũng có những biến
động bất lợi cho ta. Ngoài giá gạo thì giá cà phê cũng là một thiệt thòi lớn cho
nông dân. Từ cuối tháng, giá cà phê trên thị trờng thế giới tăng mạnh, giá cà phê
Robustal xuất khẩu của Việt nam đạt trên 1400USD/tấn. Nhng hầu hết sản lợng cà
phê thu hoạch năm 1996/1997 đã đợc tiêu thụ khi giá cà phê trong nớc còn thấp.
Số còn lại không nhiều, đến cuối tháng 3 giá cà phê trong nớc giảm liên tục 700 -
1000 đồng/kg.
Mặt hàng cao su cũng không kém khó khăn, mức giá xuất khẩu giảm xuống
nhiều, lợng cao su tồn kho ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc lên đến 10000tấn.
Ngoài ra những nguyên nhân chính ở trên, ta cũng pphải thừa nhận một thực tế là
hàng hoá sản xuất trong nớc chất lợng cha cao, mẫu mã kiểu dáng cha đáp ứng thị
hiếu ngời tiêu dùng và giá bán cha phù hợp với túi tiền ngơì tiêu dùng nhất là ở
mảng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.
Trớc tình hình đó, chính phủ đã đề ra nhiều biện ppháp chỉ đạo mạnh mẽ để
kích cầu nh: Nới lỏng cơ chế liên ngân hàng; cung ứng tiền mặt càn thiết để tăng
dữ trữ ngoại tệ của Nhà nớc để hỗ trợ vốn cho các công ty lơng thực mua hết lúa,
hàng hoá của nông dân không thấp dới giá sàn; điều chỉnh hạ lãi suất cho vay và
đơn giản hoá các thủ tục cho vay; tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp, các
hộ sản xuất tiếp cận vay vốn ngân hàng.
Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả thiết thực trong 6 Tháng cuối năm
1997 không còn hiện tợng giảm phát; chỉ số giá tăng 2, 5%. Trong đó đó lơng thực
không còn mang dấu âm (nh những tháng đầu năm). Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát vvẫn
ở mức 3, 6% (thấp hơn năm 1996 - 4, 5%) đây là mức thấp nhất trong 10 năm đổi
mới. Nếu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội cho phép 10% là rất tốt nhng mức
lạm phát quá thấp sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng giảm phát thì đó là kết quả
không hay. Về những phơng diện đối ngoại tỷ giá giữa VND/USD nửa cuối năm
1997 giảm nhiều so với tỷ giá chính thức +10%.
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tóm lại mức lạm phát năm 1997 thực hiện thấp hơn nhiều so với mục tiêu chỉ
đạo (3, 6% /10%) trong khi đó mức độ mất giá của VND/USD lớn hơn nhiều so với
mức chỉ đạo (13. 950đ / 11. 175đ) nói lên việc điều hành chính sách tiền tệ năm
1997 tuy có nhiều cố gắng song cha đạt yêu cầu của Nhà nớc. Đến 6 tháng đầu
năm 1998 chỉ số hàng hoá - dịch vụ tăng 6%. Sáu tháng năm 1999 tăng 1, 6% so
với tháng 12 năm trớc. Nhìn chung trong 2 năm trở lại đây thị trờng kém sôi động,
giá không có đột biến nhng vận động ở mức thấp, tuy có tác dụng tốt là cải góp
phận cải thiện đời sống nhng lại làm cho sản xuất lu thông gặp nhiều khó khăn cụ
thể là nông sản tiêu thụ khó khăn, công nghiệp thì thị trờng và sức mua bị thu hẹp,
nhiều sản phẩm sản xuất cầm chừng. Sáu tháng đầu năm 1999 giá cả vận động
chịu ảnh hởng của nhiều nhân tố kiềm chế tăng giá nhng cũng có những nhân tố
đẩy giá thị trờng tăng.
Để nhìn nhận một cách tổng quát nền kinh tế ta từ năm 1997 đến nay ta có
bảng thống kê của tổng cục Thống kê về chỉ số giá nh sau:
Năm 1996 1997 1998 1999
Chỉ số giá cả 4, 5% 3, 6% 9, 2%
6-7%
(Dự kiến)
Quý I 4, 3 2, 1 2, 9 2, 9
Quý II -0, 1 -0, 8 3, 1%
Quý II -0, 4 0, 9 0, 6
Quý V 0, 7 1, 4 2, 6
Số liệu trên đây đã cho ta thấy nền kinh tế nớc ta đang trong tình trạng giảm
phát mạnh. Trong đó 9 tháng đầu năm 99 chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối
năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị
thiểu phát giá hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp ở
mức cao hơn cha từng thấy nh: xi măng, than đá, thép xây dựng, đờng kính, mía
Nh vậy thiểu phát là gì? đó là một hiện tợng kinh tế xảy ra khi mức cung tiền
tệ nhỏ hơn mức cầu tiền tệ làm cho đồng tiền lên giá và từ đó làm cho chỉ số giá cả
chung giảm xuống (chỉ số giá cả âm). Theo lí luận của các nhà kinh tế thì thiểu
phát còn nguy hiểm hơn lạm phát bởi nó kìm hãm sự tăng trởng kinh tế, gây tình
trạng khủng hoảng thừa. Vì vậy trong khi lạm phát có chiều hớng lắng xuống thì
nguy cơ thiểu phát lại dâng lên, điều này đòi hỏi Chính Phủ phải có những biện
pháp thiết thực dể có thể hạn chế nó ở mức thích hợp nhất.
Sau hơn 10 năm đổi mới mà nền kinh tế nớc ta đã trải qua 3 tình thế, lạm phát
phi mã; lạm phát hai chữ số với cờng độ thấp và thiểu phát 7 tháng liền của đầu năm
1999. Đây là một hiện tợng kinh tế và xã hội không bình thờng ở nớc ta.
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
III. Nguyên nhân gây ra lạm phát và thiểu phát.
1. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nớc ta chủ yếu là nông
nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến
tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn
thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trớng cung ứng tiền tệ quá lớn
(bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình trạng lạm
phát.
Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu t tăng không hợp lý làm
cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90% quỹ tiêu
dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nớc ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ
của Liên Xô đã giảm đáng kể.
Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì
vậy mà nền kinh tế kém phát triển, luôn trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt
ngân sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho
phép gây nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số.
Chính sách đổi tiền và tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ
những năm 80 đến những năm gần đây, Nhà nớc đã 3 lần điều chỉnh giá với mức
quá lớn, không đồng bộ. Sự điều chỉnh đã không mang lại hiệu quả lại còn gây tình
trạng giá cả tăng vọt và buộc phải chấp nhận cơ chế trợt giá trong việc thu mua
nông sản, thực phẩm và bù giá vào lơng. Thời kỳ này nhiều ngành, nhiều địa ph-
ơng đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Tình hình này đã gây ách
tắc sản xuất, thị trờng rối ren và làm tăng bội chi ngân sách.
Việc buông lỏng quản lí ngoại thơng, thị trờng ngoại hối cũng gây tác hại lớn
cho ngân sách và lu thông tiền tệ. Trong lĩnh vực xuất khẩu đã phát sinh hiện tợng
tranh mua, tranh bán hay tuỳ tiện tăng giá hay dìm giá của một số địa phơng.
Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vốn là nền kinh tế đi từ chế độ công hữu
tràn lan sang nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh và khép kín. Cho
nên nó đã làm cho Việt Nam có một nền kinh tế kém phát triển. Chi phí sản xuất
tăng lên, tách rời với nhu cầu và cô lập với thị trơng thế giới. Do vậy không tạo đợc
môi trờng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp các công ty
Mặt khác nền kinh tế vốn đã yếu kém chậm phát triển về mọi mặt, hiệu quả
đầu t không cao, cha có chọn lọc. Quá u tiên phát triển công nghiệp nặng trong khi
cha chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất cho nó. Vì vậy làm nền kinh tế mất cân đối,
cha khai thác hết tiềm năng của đất nớc, nếu có lại sử dụng kém hiệu quả ; cha huy
động đợc sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Và đặc
biệt là do sự chủ quan duy ý chí, giáo điều dập khuôn của các cấp lãnh đạo Đảng
và Nhà nớc trong những năm qua cha biết đa lí luận để áp dụng vào thực tiễn đất n-
ớc
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
2. Nguyên nhân gây ra thiểu phát lạm phát
Những tởng tránh đợc cơn bão lạm phát những năm cuối thập kỷ 90 đất nớc ta
sẽ đi vào sự phát triển phồn vinh thịnh vợng, thực tế kinh tế những năm qua có dấu
hiệu đáng mừng tăng trởng qua các năm luôn phát triển.
Năm 92: 8, 6%. Năm 93: 8, 1%. Năm 94: 8, 8% Năm 95: 9, 34%.
Kỳ họp quốc hội khoá VIII Đảng ta đã xác định mục tiêu tăng trởng kinh tế từ
nay đến năm 2000 là 9-10%. Nếu cứ đà tốc độ phát triển nh trên thì mục tiêu trên
sẽ chỉ là nhứng con số bình thờng có thể thực hiện đợc, song sự thực lại trở lên phũ
phàng hơn. Nền kinh tế nớc ta cứ từ tụt dốc, đất nớc không còn phải đối mặt với
cơn bão lạm phát nữa, mà lại gặp phải những vấn đề còn nguy hiểm hơn lạm phát
đó là thiểu phát, kẻ thù số một của sự phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê năm
99 này mức lạm phát chỉ có 0, 2% nền kinh tế trở lên trì trệ
Vậy đâu là nguyên nhân đa đến thiểu phát: Theo các nhà nghiên cứu kinh tế
nguyên nhân của thiểu phát rất nhiều. Song tổng kết lại thì chỉ có một vài nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Trong những tháng qua sức mua của xã hội rất thấp tổng vốn đầu
t dể phát triển kinh tế xã hội chỉ đạt 37, 5% kế hoạch năm. Trong đó vấn đầu t của
ngân sách Nhà nớc là 41% vốn tín dụng đạt 40% cấp phát vốn cho dầu t phát triển
38, 1%. Tổng phơng tiện thanh toán tăng 7, 5% so với tháng 12 năm 98, nhng
nguồn vốn huy động tăng 8, 9%
- Thứ hai: ảnh hởng của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á
và các nớc trên thế giới đã ảnh hởng rất nhiều đến nền kinh tế nớc ta. Cuộc khủng
hoảng đã làm tỉ giá của các đồng tiền các nớc trong khu vực so với USD giảm
xuống (Đồng tiền của họ mất giá ) làn cho tỷ giá đồng tiền nớc bạn so với đồng
tiền nớc ta cũng giảm mạnh sự sút giảm này dẫn đến hàng hoá của nớc bạn trở lên
rất rẻ. Một nơi có quá hàng cao, một nơi có quá hàng thấp tất yếu sẽ dẫn đến hàng
hoá nớc bạn thâm nhậm vào thị trờng nớc ta. Chính vì vậy các mặt hàng nh dầu thô
hàng may mặc, gạo, cà fê, cao su Thời gian qua đã giảm liên tục ảnh hởng trực tiếp
đến giá cả thị trờng trong nớc
- Thứ ba: Tốc độ tăng trởng kinh tế chậm lại nhiều chỉ tiêu đạt mức tăng tr-
ởng thấp hơn so với kì năm trớc, dựng cơ bản triển khai chậm, khối lợng xây dựng
cơ bản thực hiện ớc bằng 305 kế hoạch năm. Vốn đầu t nớc ngoài ớc bằng 63% so
với cùng kỳ năm trớc, chi ngân sách Nhà nớc tính đến 15\5 bằng 31, 3% dự toán
năm ; tổng phơng tiện thanh toán trong năm tháng tuy có tăng hơn cùng kỳ năm tr-
ớc nhng chỉ bằng 407 kế hoạch cả năm. Tỷ lệ thất nghiệp còn lớn (Hà Nội 9%, Hải
Phòng 8, 3%, Thành Phố Hồ Chí Minh 75, Đà Nắng 6, 3%). Tình hình trên đã tác
động làm cho sức mua không tăng, làm giảm áp lực tăng giá thị trờng xã hội
- Thứ t: Thị trờng trong nớc trầm lặng, hàng hoá tiêu thụ khó khăn nh lúa
gạo. Tính đến hết tháng 5\1999 đờng của các nhà máy sản xuất còn tồn kho lên tới
14

Xem chi tiết: Lạm phát


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét