Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Phân tích định lượng tác động của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam-slide+word phần 2

thời để nâng cao năng suất lao động cần đầu tư xây dựng hệ thống kênh
mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hoá,
hệ thống giáo dục và điện khí hoá nông thôn.
 Giai đoạn 2: Hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng
thời cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng. Bên cạnh việc
tiếp tục phát triển nông nghiệp theo quy mô lớn, cần phát triển những ngành
công nghiệp, dịch vụ cần nhiều lao động và các ngành thu hút nhiều lao
động. Nhờ đó vừa giải quyết lao động dư thừa vừa mở rộng thị trường cho
ngành công nghiệp.
 Giai đoạn 3: Sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh
tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động. Đẩy mạnh đầu tư đưa khoa học
công nghệ vào nhằm thay thế lực lượng lao động đang dần trở nên thiếu hụt.
Các ngành sử dụng ít lao động đang dần thay thế các ngành sử dụng nhiều
lao động trong cơ cấu kinh tế
 Mô hình của Oshima là mô hình tiến bộ nhất và cũng gần gũi nhất với
điều kiện Việt Nam (một nước châu Á gió mùa). Bởi vậy những kết luận
mô hình đưa ra rất đáng lưu tâm. Theo đó, cơ cấu đầu tư biểu hiện
những ưu tiên của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Chính nó quyết định
cơ cấu kinh tế. Do đó kiến nghị mà Oshima đưa ra là sử dụng sự thay đổi
từng bước trong cơ cấu đầu tư để mang lại Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.3. Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu (Moise Syrquin)
Có thể tóm tắt lý thuyết chuyển dịch cơ cấu kinh tế của M. Syrquin gồm ba giai
đoạn: (1) sản xuất nông nghiệp, (2) công nghiệp hóa, và (3) nền kinh tế phát triển.
 Giai đoạn 1: có đặc trưng chính là sự thống trị của các hoạt động của khu
vực khai thác, đặc biệt là nông nghiệp. Nếu xét ở mặt cung, thì trong giai
đoạn 1 có những đặc trưng chính là tỷ lệ tích lũy tư bản còn khiêm tốn nên
tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng cao của lực lượng lao động, và tốc độ
tăng trưởng tổng năng suất nhân tố (TFP) rất thấp, và nhân tố sau cùng này
tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung hơn là yếu tố tỷ lệ đầu
tư thấp.
 Giai đoạn 2 hay là giai đoạn công nghiệp hóa: có đặc điểm nổi bật là tầm
quan trọng trong nền kinh tế đã được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực chế biến và chỉ tiêu chính để đo lường sự dịch chuyển này là tầm
quan trọng của khu vực chế biến trong đóng góp và tăng trưởng kinh tế
chung ngày càng tăng lên. Xét ở mặt cung, sự đóng góp vào tăng trưởng
của nhân tố tích lũy tư bản vẫn được giữ ở mức cao trong hầu hết giai đoạn
2 do có sự gia tăng mạnh của tỷ lệ đầu tư.
 Giai đoạn 3: là giai đoạn của một nền kinh tế phát triển. Sự chuyển tiếp từ
giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 có thể được hiểu theo nhiều cách. Nếu xét về
mặt cầu, tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong cơ cấu nhu cầu nội địa bắt
5
đầu giảm xuống. Khu vực dịch vụ trở thành khu vực quan trọng nhất và
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP cũng như cơ cấu lao động. Ở
mặt cung, sự khác biệt chủ yếu giữa giai đoạn 2 và giai đoạn 3 là sự suy
giảm trong đóng góp vào tăng trưởng của cả hai nhân tố sản xuất tư bản và
lao động theo cách tính qui ước. Như vậy, trong giai đoạn này, nhân tố
đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng là nhân tố tổng năng suất nhân tố (Total
Factor Productivity - TFP).
Có thế nói rằng, lý thuyết chuyển dịch cơ cấu của M. Syrquin là một bức tranh
tổng thể khá chính xác về sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới
thời kỳ hiện đại. Đặc biệt, lý thuyết này đi sâu hơn các lý thuyết trước trong việc
phân tích tác động của từng nguồn lực trong đầu tư phát triển đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong từng giai đoạn.
1.6. Lý thuyết phát triển cân đối và Lý thuyết phát triển không cân đối hay
“các cực tăng trưởng”
• Những nhà kinh tế học ủng hộ lý thuyết phát triển cân đối (như R
Nurkse, Rosenstein - Rodan) cho rằng ngay từ đầu phải đầu tư phát triển
đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng công nghiệp
hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Luận cứ mà họ đưa ra là:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau, "đầu
ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng đều
và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh hưởng tiêu
cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế
khác, qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ.
- Một nền kinh tế dự trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng vững
chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển.
Những nghiên cứu mà mô hình đưa ra chỉ phù hợp để định hướng cho một nền
kinh tế đóng. Nó không phù hợp với điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Đặc biệt với
các nước đang phát triển nếu đi theo con đường này sẽ bị hạn chế trong việc tiếp
cận với các nguồn lực do không tận dụng được các lợi ích mà môi trường bên
ngoài đem lại. Mặt khác, việc đầu tư cho tất cả các ngành phải đối mặt với vấn đề
nguồn lực khan hiếm. Đặc biệt, với các nước đang phát triển, việc đầu tư vào tất
cả các ngành với nguồn lực nhỏ bé trong nước sẽ dẫn tới đầu tư dàn trải, kém hiệu
quả.
• Bởi vậy hiện nay hầu hết các nước đều đi theo con đường phát triển
không cân đối. Những đại diện tiêu biểu của lý thuyết này (A. Hirschman,
F. Perrons) cho rằng không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng trưởng
bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia.
Họ lập luận như sau:
6
- Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích thích đầu tư. Nếu cung bằng cầu
trong tất cả các ngành thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư nâng cao năng lực sản xuất.
Ðể phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành nhất định, tạo ra
một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư trong các ngành khác theo
kiểu lý thuyết số nhân, từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong
nền kinh tế là không giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực (vốn
khan hiếm) cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, các nước đang phát triển rất
thiếu các nguồn lực sản xuất và không có khả năng phát triển cùng một lúc đồng
bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, phát triển không cân đối gần như là một sự
lựa chọn bắt buộc.
Rõ ràng, lý thuyết này phù hợp hơn với xu thế hội nhập nói chung và điều kiện
của các nước đang phát triển nói riêng. Hiện nay hầu hết các nước đều định hướng
đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào một số lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, để
phát triển bền vững nên kết hợp linh hoạt 2 lý thuyết này trong định hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đất nước trong từng giai đoạn.
Kết luận chung được rút ra sau khi xem xét tất cả các lý thuyết trên là: Thứ
nhất, để phát triển kinh tế cần xác định một cơ cấu kinh tế phù hợp cho từng giai
đoạn (đây là nhiệm vụ của công tác định hướng, lập kế hoạch). Thứ hai, muốn
nền kinh tế chuyển dịch theo cơ cấu đã định ra, phải hướng đầu tư vào những
lĩnh vực ưu tiên đã được xác định. Vậy, các lý thuyết trên đều chứng minh rằng
đầu tư có vai trò là nhân tố thực hiện trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
2 .Những logic thực tế về vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
2.1. Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử dụng
như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường vật
chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng công nghệ qua đó nâng cao năng suất lao động
của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt khác,
đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động,tài
nguyên,vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành. Chính đầu tư chứ không
phải các quyết định hành chính là nhân tố trực tiếp nhất có thể huy động tất cả các
yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của ngành. Không những thế việc đầu tư
còn tạo ra điều kiện vật chất cho sự ra đời của những ngành mới. Sự thay đổi tỉ
trọng giữa các ngành và sự ra đời của những ngành mới chính là chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành.
2.2.Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
7
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp
đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng
tập trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một
quốc gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác
cùng phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi
đói nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ
theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng
của đô thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ
sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá
không thể gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng
không đáp ứng được các nhu cầu của người dân. Các dịch vụ y tế, giáo dục…
cũng cần được đầu tư cho phù hợp với sự phát triển của một đô thị.
2.3.Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định
thành phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò; nhiệm
vụ của các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực
hiện.
Tóm lại, nhìn tư góc độ lý thuyết hay thực tiễn đều thấy được mối quan hệ và
vai trò tất yếu của đầu tư phát triển đối với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia. Đây là cơ cở lý thuyết quan trọng để thực hiện đề tài.
3.Vai trò đặc biệt của đầu tư trong điều kiện toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá là xu hướng chung của cả thế giới mà không một quốc gia nào có
thể đứng ngoài xu hướng chung đó. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam, toàn cầu hoá luôn kèm theo những yếu tố loại trừ rất khắc nghiệt. “Đổi
mới hay tụt hậu?”câu hỏi đó phải được trả lời bằng quyết tâm của cả nền kinh tế.
Vậy nên, trong điều kiện toàn cầu hoá vai trò của đầu tư trở nên vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ, trước đòi hỏi cao của trình độ khoa học công nghệ thế giới, chúng ta
phải không ngừng nâng cao công nghệ của mình. Mà công nghệ không thể tự sản
sinh nếu không có vốn bất kể đó là công nghệ nội sinh hay công nghệ ngoại sinh.
Hơn nữa, nền kinh tế trong nước là một bộ phận của kinh tế thế giới. Vì vậy, cơ
cấu kinh tế của chúng ta không những phải chuyển dịch mà còn phải chuyển dịch
nhanh hơn để phù hợp nhu cầu của thế giới. Với điều kiện nước ta hiện nay những
bất hợp lý là không thể tránh khỏi. Nhưng chúng ta phải nhanh chóng xoá bỏ
những điều đó để hội nhập. Muốn vậy phải đầu tư nhiều hơn nữa.
Mặc dù những thách thức là rất lớn nhưng toàn cầu hoá cũng mang lại cho
chúng ta nhiều cơ hội lớn để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó
là đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ và thương mại quốc tế. Với việc mở
cửa nền kinh tế, chúng ta đang thu hút những nguồn vốn vô cùng quan trọng cho
sự phát triển toàn diện. Chuyển giao công nghệ tuy có những khó khăn, phức tạp
nhưng đó là hướng đi chung của các quốc gia đang phát triển hiện nay để thực
8
hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Thương mại quốc tế là cơ hội rất lớn
để chúng ta mở rộng thị trường đồng thời tạo môi trường cạnh tranh trong nước.
Nhưng để cạnh tranh hiệu quả chúng ta cần biết thị trường thế giới đang cần gì để
xây dựng cơ cấu đầu tư vào những nhóm ngành sản xuất hàng xuất khẩu phù hợp.
Toàn cầu hoá đang đưa Việt Nam ra gần hơn với thế giới và đưa thế giới đến gần
hơn với Việt Nam.
4. Những chỉ số đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tác động của
đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4.1.Các chỉ số đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4.1.1. Tỉ trọng các ngành -
β
(t)
• Công thức tính tỉ trọng các ngành:
)(
)(
tGDP
tGDP
Ngành
Ngành
=
β
Tỉ trọng của ngành phi nông nghiệp là :
β
PNN
(t) = β
CN
(t) + β
DV
(t)
Tỉ trọng của ngành sản xuất vật chất là :
β
SXVC
(t) = β
NN
(t) + β
CN
(t)
• Ý nghĩa hệ số
Cho biết đóng góp về mặt lượng của mỗi ngành vào tổng sản lượng của nền kinh
tế trong mỗi thời kỳ. Nếu xét trong một thời kỳ, chỉ số này thể hiện vai trò của
mỗi ngành trong nền kinh tế. Nếu xét nhiều thời kỳ liên tiếp, chỉ số này biểu hiện
sự thay đổi vai trò của các ngành qua thời gian.
Công thức tính tỷ trọng này cũng áp dụng để tính tỷ trọng GDP, tỷ trọng đầu tư
của các vùng, các thành phần kinh tế. Khi đó, nó được dùng để đánh giá chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ và theo thành phần kinh tế.
4.1.2. Độ lệch tỉ trọng ngành – d
 Công thức tính
d
NN
=
)()1( tt
NNNN
ββ

 Ý nghĩa: Độ lệch tỷ trọng ngành phản ánh sự thay đổi tỷ trọng ngành đó
giữa năm đầu và năm cuối của giai đoạn nghiên cứu. Nhờ đó ta có thể đánh
giá được hướng chuyển dịch của ngành đó cũng như hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế giữa các ngành.
4.1.3. Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp
• Công thức tính
Cos θ
o
=
)1()1(())()((
)1()()1()(
2222
tttt
tttt
PNNNNPNNNN
PNNPNNNNNN
ββββ
ββββ
+×+
×+×
Góc θ
o
= arccos θ
o
Hệ số chuyển dịch k của 2 ngành NN và phi NN là :
9
K=
90
0
θ
• Ý nghĩa của hệ số
Góc θ
o
bằng 0
o
khi không có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và 90
0
khi sự dịch
chuyển là lớn nhất. Hệ số k cho biết tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhờ
đó mà có ta có thể sử dụng hệ số K của mỗi vùng hay mỗi giai đoạn để so sánh và
đánh giá tốc độ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng hoặc của vùng đó
qua các giai đoạn.
• Điều kiện áp dụng: trong công thức đưa ra; vai trò của 2 thành phần tỷ trọng
nông nghiệp và phi nông nghiệp là hoàn toàn bình đẳng. Bởi vậy, việc sử
dụng k để đánh giá tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ áp dụng khi sự
chuyển dịch là đúng hướng (tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm, tỷ trọng khu
vực phi nông nghiệp tăng. Vì vậy, chỉ đánh giá k trong giai đoạn d
NN
<0)
4.2. Các hệ số đánh giá tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành (H1)
• Công thức
H1 =
)(
)()1(
)(
)()1(
t
tt
t
tt
I
II
β
ββ
β
ββ


với
)1(t
I
β
là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ nghiên cứu
)(t
I
β
là tỷ trọng đầu tư ngành thời kỳ trước

)1(t
β
là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ nghiên cứu

)(t
β
là tỷ trọng đóng góp GDP của ngành đó thời kỳ trước
• Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong
tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì cần phải đầu tư cho ngành tăng thêm
bao nhiêu. Bởi vậy, nó là thước đo đánh giá độ nhạy cảm giữa tỷ trọng GDP
của mỗi ngành và tỷ trọng đầu tư của ngành đó. Qua đó có thể đánh giá mức
độ ảnh hướng của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nếu hệ số
này mang giá giá trị dương tức là khi tỷ trọng đầu tư vào ngành tăng hoặc
giảm thì tỷ trọng GDP cũng tăng giảm tương ứng. Nếu hệ số này âm, tức là
trong giai đoạn đo đầu tư không tác động thuận chiều đến thay đổi tỷ trọng
ngành.
2.Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP (H2)
• Công thức tính
H2 =
)(
)()1(
)(
)()1(
tg
tgtg
t
tt
I
II


β
ββ
10
Với
g(t1) là tốc độ tăng trưởng kỳ nghiên cứu
g(1) là tốc độ tăng trưởng kỳ trước
• Ý nghĩa : chỉ tiêu này cho biết để góp phần đưa vào tăng trưởng kinh tế
(GDP) lên 1% thì tỉ trọng đầu tư vào 1 ngành nào đó tăng bao nhiêu. Cũng
giống như hệ số trên, hệ số này là thước đo độ nhạy cảm của tăng trưởng
kinh tế nói chung với thay đổi tỷ trọng đầu tư của mỗi ngành.

Chương II
Thực trạng của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam giai đoạn sau đổi mới kinh tế 1986
Phần A. Tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
I.Khái quát tình hình thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam sau Đổi mới
Đổi mới kinh tế đánh dấu một bước ngoặt lớn trong hoạt động đầu tư phát triển
ở Việt Nam. Với sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài (1987) và Luật Doanh
nghiệp (2000) tình hình thu hút vốn đầu tư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tổng
vốn đầu tư tăng nhanh. Chỉ xét giai đoạn từ 1995-2007, tổng vốn đầu tư đã tăng
hơn 7 lần. Từ năm 1990 đến nay tổng vốn đầu tư phát triển của Việt Nam tăng
khá nhanh và tỷ lệ đầu tư so với GDP đã tăng lên đến 41% năm 2006, 41,7% năm
2007.
Vốn đầu tư ở Việt Nam
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Sơ bộ
2007
Tỷ đồng
Vốn đầu tư ở Việt Nam
(nguồn: tổng cục thống kê)
11
Mặt khác, về cơ cấu nguồn vốn có sự đa dạng hóa. Nếu trước đổi mới, vốn đầu
tư xã hội chủ yếu là vốn nhà nước. Thì sau đổi mới nguồn vốn đã được mở rộng
với sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Nguồn vốn trong
nước đã được khai thác khá hơn, chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư, vượt dự
kiến kế hoạch (60%), tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục
tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là xây dựng kết
cấu hạ tầng; đồng thời có nhiều hình thức huy động khác như công trái giáo dục,
trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị , tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, chúng ta luôn luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, cả
ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư
phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát
triển, tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Số dự án FDI được cấp giấy phép đã tăng
nhanh về số lượng. Từ 37 dự án năm 1988 lên 987 dự án năm 2006 và sơ bộ đạt
1544 dự án năm 2007. Nguồn vốn ODA được giải ngân đạt 4.6 tỷ USD trong 3
năm qua. Góp phần vào sự gia tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển là sự phát
triển mạnh của thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chúng khoán trong thời
gian gần đây đã tạo ra một kên huy động vốn mới, hiệu quả.
II. Đánh giá chất lượng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam sau Đổi
mới
Phần này chủ yếu nêu ra các đánh giá định lượng về chất lượng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Việt Nam thông qua hệ thống các chỉ số đã nêu ở chương I.
1.Mức độ chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành
Sự thay đổi vai trò của từng ngành qua các thời kỳ được xem xét thông qua tỷ
trọng của các ngành trong nền kinh tế.
Tỷ trọng ngành kinh tế của VN thời kỳ 1986-2007 được thể hiện qua bảng
sau :
Bảng 1
Năm 1986 1990 1999 2000 2005 2006 2007
Đóng góp GDP của các ngành (tỷ đồng)
NN 228 16252 101723 108356 175984 198797 232188
CN 173 9513 137959 162220 344229 404696 475680
DV 198 16190 160260 171070 319004 370771 436146
Tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế (%)
NN 38.06 38.74 25.43 24.53 20.05 18.74 17.86
CN 28.88 22.67 34.49 36.73 41.00 40.97 41.77
DV 33.06 38.59 40.08 38.73 38.50 40.29 40.37
12
(nguồn:TỔNG CỤC THỐNG KÊ)
Có thể thấy vai trò của các ngành kinh tế không ngừng thay đổi theo thời gian.
Trong đó, ngành nông nghiệp từ chỗ là ngành quan trọng nhất (chiếm tỷ trọng cao
nhất trong giai đoạn 1986-1990) đã dần nhường chỗ cho các ngành công nghiệp
và dịch vụ. Tỷ trọng của ngành dịch vụ nhìn chung không ngừng gia tăng trong
các thời kỳ. Hiện nay, công nghiệp đang là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong
GDP. Đồng nghĩa với việc là ngành kinh tế quan trọng nhất. Tỷ trọng ngành dịch
vụ cũng tăng liên tục qua các năm. Có những thời kỳ dịch vụ đã là ngành kinh tế
lớn nhất (1999-2005). Hiện nay, đó là ngành kinh tế lớn thứ hai sau công nghiệp.
Nếu so sánh với các chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm, còn có thể thấy:
- Chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm 1996-2000: Cơ cấu ngành kinh tế năm cuối (2000)
Nông-lâm-ngư nghiệp:19-20%; Công nghiệp-xây dựng: 34-35%; Dịch vụ:
45-46%. Nếu nhìn vào giá trị đạt được của Việt Nam trong năm 2000 với các số
liệu tương ứng là 24.53%-36.73%-38.73% thì chuyển dịch cơ cấu ngành nông
nghiệp, dịch vụ đã không đạt được chỉ tiêu đề ra. Tuy nhiên, nguyên nhân ở đây là
do chính các chỉ tiêu thời kỳ này là không hợp lý khi kỳ vọng quá cao vào sự phát
triển của ngành dịch vụ trong điều kiện bấy giờ của đất nước.
- Chỉ tiêu kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005: Cơ cấu kinh tế năm 2005: Tỷ trọng các
ngành: Nông nghiệp: 20-21%; Công nghiệp-xây dựng: 38-39%; Dịch vụ 41-42%.
Các chỉ tiêu này rõ ràng đã được điều chỉnh phù hợp hơn. Tuy nhiên, việc đặt mục
tiêu tỷ trọng dịch vụ cao hơn công nghiệp là chưa hợp lý. Trong thực tế năm 2005,
tỷ trọng ngành dịch vụ (38.05%) vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra.
- Chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 là: nông-lâm-ngư nghiệp:
15-16%; công nghiệp-xây dựng: 43-44%; Dịch vụ: 40-41%. Chỉ tiêu đặt ra cho
giai đoạn này đã thực sự định hướng được cho sản xuất và là chỉ tiêu tốt để so
sánh. Và nếu nhìn vào cơ cấu ngành năm 2007, ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng
các chỉ tiêu này sẽ được hoàn thành vao năm 2010.
1. Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
• Số liệu thực tế của Việt Nam
Độ lệch tỷ trọng các ngành các giai đoạn :
Bảng 4
Đơn vị:%
Giai đoạn 1986-1989 1990-1994
1995-199
9
2000-200
4
2005-200
7
Độ lệch tỷ
trọng NN 4.01 -11.31 -1.74 -2.77 -3.04
Độ lệch tỷ
trọng CN -5.94 6.2 5.72 3.36 0.77
Độ lệch tỷ
trọng DV 1.93 5.11 -3.98 -0.59 2.27
Độ lệch tỷ
trọng PNN -4.01 11.31 1.74 2.77 3.04
13

• Đánh giá số liệu.
Nếu xét theo tương quan giữa 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp có thể
thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đi đúng hướng. Từ năm 1990, độ lệch tỷ trọng
nông nghiệp luôn mang giá trị âm cho thấy hướng chuyển dịch từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp.
Nhưng nếu xét cho từng nhóm ngành thì sự chuyển dịch chưa mạnh mẽ và chưa
thể hiện một xu thế liên tục trong mọi giai đoạn. Cụ thể, giai đoạn 1986-1989, nền
kinh tế chưa chuyển dịch đúng hướng. Điều này có thể lý giải do những bỡ ngỡ
ban đầu của chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Trong các giai đoạn tiếp theo, tỷ trọng nông nghiệp đã đi theo xu hướng chung là
luôn giảm. Độ lệch tỷ trọng ngành nông nghiệp có giá trị tuyệt đối cao nhất vào
giai đoạn 1990-1994 (11.33%). Từ 1995, giá trị này thấp hơn hẳn giai đoạn trước
nhưng luôn tăng đều qua các năm. Tỷ trọng công nghiệp tăng nhưng mức tăng có
xu hướng chậm lại. Điều đó là phù hợp nếu công nghiệp nhường bước cho dịch vụ
phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực dịch vụ lại không đi theo một xu
hướng như mong muốn. Giai đoạn 1995-2000, độ lệch tỷ trọng nhóm ngành dịch
vụ mang dấu âm trong khi chủ trương chung của chúng ta trong thời kỳ này là
không ngừng gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ. Điều đó có nghĩa là những chủ
trương của Đảng chưa được thực sự đi vào thực tiễn. Tuy nhên, hiện nay, xu
hướng chung đã được lập lại. Độ lệch tỷ trọng dịch vụ lại mang giá trị dương
trong giai đoạn 2005-2007. Có thể lạc quan rằng kế hoạch 5 năm 2006-2010 đang
được triển khai đúng hướng trong thực tế.
2. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu giữa 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp được
đánh giá thông qua hệ số chuyển dịch k.
• Số liệu thực tế của Việt Nam
Tỷ trọng các khu vực trong nền kinh tế Việt Nam
Bảng 2
Đơn vị: %
Năm 1986 1989 1990 1994 1995 1999 2000 2004 2005 2007
Tỷ trọng NN 38.06 42.07 38.74 27.43 27.18 25.44 24.53 21.76 20.9 17.86
Tỷ trọng PNN 61.94 57.93 61.26 72.57 72.82 74.56 75.47 78.24 79.1 82.14
Chuyển dịch cơ cấu ngành NN và phi NN
Bảng 3
Giai đoạn 1986-1989 1990-1994 1995-1999 2000-2004 2005-2007
cos θ
0.99703 0.97956 0.99960 0.99908 0.99902
Góc θ
4.419 11.603 1.628 2.463 2.534
Hệ số k 0.049 0.129 0.018 0.027 0.028
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét