Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
nguy hiểm, có tốc độ lây lan nhanh Virus có trong dịch mũi, nước bọt, tinh dịch (trong giai
đoạn nhiễm trùng máu), phân, nước tiểu và phát tán ra môi trường. Ở lợn mẹ mang trùng, virus
có thể lây nhiễm cho bào thai từ giai đoạn giữa thai kỳ trở đi và virus cũng được bài thải qua
nước bọt và sữa. Lợn trưởng thành có thể bài thải virus trong vòng 14 ngày trong khi đó lợn
con và lợn choai bài thải virus tới 1-2 tháng. Virus có thể phát tán thông qua các hình thức: vận
chuyển lợn mang trùng, theo gió (có thể đi xa tới 3 km), bụi, bọt nước, dụng cụ chăn nuôi và
dụng cụ bảo hộ lao động nhiễm trùng, thụ tinh nhân tạo, do người chăn nuôi, mua bán lợn từ
vùng có dịch tới vùng chưa có dịch và có thể do một số loài chim hoang.[ 30]
Các giải pháp nhằm xử lý dịch bệnh và hạn chế sự lây lan của dịch bệnh ra các vùng chưa
có dịch của nhà nước ta là:
• Thực hiên tiêu hủy lợn đã bị nhiễm bệnh bằng các hố chôn tập chung và tiến hành trợ
cấp cho các hộ gia đình có lợn bị nhiễm bệnh với giá là 25000đ/1kg.
• Thực hiện công tác phòng chống dịch, tuyên truyền cho người dân hiểu và biết cách
phòng và trị bệnh khi có dịch sảy ra
• Ngày 22-4, Bộ NN&PTNT đã liên tiếp ra 2 công điện về việc hạn chế xuất khẩu lợn tiểu
ngạch qua biên giới và tạm thời dừng việc vận chuyển lợn từ Bắc vào Nam. Theo đó, kể từ
ngày 26- 4 tới đây, chỉ xuất khẩu tiểu ngạch lợn sống qua biên giới khi đáp ứng đủ các điều
kiện: Lô hàng lợn sống có xuất xứ từ những tỉnh, thành không có dịch “tai xanh" và có giấy
kiểm dịch của cơ quan thú y tại gốc xuất đi xác nhận lợn không bị bệnh. Lộ trình vận chuyển
của lô hàng đến biên giới không đi qua các tỉnh, thành có dịch “tai xanh"….[32 ]
Dịch lan nhanh và rộng trong thời gian ngắn do có một số nguyên nhân: Khí hậu khắc
nghiệt hơn so với mọi năm; nhu cầu thực phẩm càng ngày càng lớn khiến việc vận chuyển diễn
ra phức tạp và công tác kiểm soát dịch bệnh của chúng ta chưa sát sao, đôi khi bị buông lỏng.
Cùng với đó, việc chăn nuôi không đảm bảo vệ sinh hay nói cách khác là nuôi trong môi
trường “bẩn” như nước ta hiện nay cũng là một trong những yếu tố làm dịch bệnh bùng phát,
lây lan. Chính vì vậy việc thực hiện vệ sinh phòng chống dịch bệnh trong các trang trại chăn
nuôi lợn là một vấn đề hết sức cần thiết đối với ngành chăn nuôi ở nước ta hiện nay nhằm đảm
bảo số lượng và chất lượng lợn được xuất chuồng.
I.1.2. Đăc trưng của ngành chăn nuôi lợn
Việt Nam là một nước có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp,trong đó chăn nuôi
chiếm 1 vị trí rất quan trọng, nó cung cấp thực phẩm cho nhu cầu trong nước và cung cấp cho
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
nhu cầu xuất khẩu, trong đó ngành chăn nuôi lợn chiếm 70% GDP của toàn ngành. Mỗi năm
ngành chăn nuôi cung cấp cho thị trường khoảng 2,8 triệu tấn thịt lợn thương phẩm[ 29]. chăn
nuôi ở nước ta còn phân tán nhỏ lẻ, tận dụng, xen kẽ trong khu dân cư với một phần lớn chiếm
80% số hộ chăn nuôi, việc phát triển chăn nuôi chủ yếu vẫn là tự phát theo tư duy, tập quán cũ,
chưa gắn với quy hoạch cụ thể lâu dài theo vùng phù hợp; năng suất, chất lượng sản phẩm chăn
nuôi thấp, vấn đề dịch bệnh, ô nhiễm môi trường luôn thường trực đe dọa tới người chăn nuôi,
đây là những trở ngại lớn trước sự đòi hỏi cao, rất khắt khe của thị trường về chất lượng, vệ
sinh an toàn thực phẩm trong những năm tới. Các sản phẩm chăn nuôi vẫn chủ yếu được tiêu
thụ dưới dạng thô hoặc giết mổ thủ công, phân tán, các cơ sở giết mổ, chế biến còn ít, do đó
không nâng cao được chất lượng, giá trị kinh tế của sản phẩm, chưa xây dựng được thương
hiệu hàng hóa cũng như thương hiệu cơ sở sản xuất nên không thâm nhập được các thị trường
có sức tiêu thụ lớn, ổn định. Tiến bộ khoa học công nghệ về con giống, thức ăn, phòng ngừa
dịch bệnh chưa được áp dụng một cách đồng bộ, rộng rãi do đó năng suất và chất lượng chăn
nuôi thấp
Trong những năm gần đây, Tại những vùng nông thôn Việt Nam số lượng trại chăn nuôi lợn
quy mô lớn ngay càng tăng. Hiện tại đã có nhiều tỉnh có các trại chăn nuôi tư nhân với trên 20
nghìn đầu lợn và cũng có nhiều hộ cá thể nuôi trên 100 con. chăn nuôi lợn ở nước ta đã tăng
trưởng khá về tổng đàn, chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu Tuy
nhiên so với yêu cầu và khả năng thì kết quả này còn quá khiêm tốn. Để nâng cao sức cạnh
tranh, mở rộng thị trường cho sản phẩm thịt lợn xuất khẩu theo các chuyên gia thì có rất nhiều
vấn đề đang đặt ra đòi hỏi chúng ta cần nhanh chóng giải quyết một cách triệt để như tăng
cường sử dụng các giống mới, kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, mở rộng quy mô sản xuất, xúc tiến
thị trường, phát triển công nghiệp chế biến, tạo thế chủ động về nguyên liệu phục vụ chế biến
thức ăn chăn nuôi…
Tuy nhiên, hiện nay tồn tại một loạt vấn đề liên quan đến quá trình phát triển ngành chăn
nuôi lợn cần giải quyết. Đó là ô nhiễm môi trường tại các trại chăn nuôi, tỉ số lợn nhiễm bệnh
và tỉ lệ lợn chết còn cao, dẫn đến tăng chi phí thức ăn và thuốc chữa bệnh (chiếm khoảng 70%
tổng chi phí). Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nguy cơ rủi ro trong sản
xuất mặt khác nước ta là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có thể thường xuyên xảy ra
các ổ dịnh như; lở mồm long móng,tụ huyết trùng, phó thương hàn, hội chứng bệnh tiêu chảy,
hô hấp và sinh sản, dịch tả lợn và gần đây nhất là dịch lợn tai xanh (hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản ở lợn). Đây là một loại dịch bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm, có tốc độ lây lan
nhanh. dịch lan nhanh và rộng trong thời gian ngắn do có một số nguyên nhân: Khí hậu năm
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
nay khắc nghiệt hơn so với mọi năm; nhu cầu thực phẩm càng ngày càng lớn khiến việc vận
chuyển diễn ra phức tạp và công tác kiểm soát dịch bệnh của chúng ta chưa sát sao, đôi khi bị
buông lỏng.hơn nữa việc vệ sinh phòng chống dịch bệnh ở các cơ sở sản xuất vẫn chưa được
quan tâm đúng mức khiến cho dịch bệnh có thể lan nhanh và gây thiệt hại rất lớn đối với người
chăn nuôi
Vì vậy chăn nuôi lợn ở nước ta cần phải lưu ý cả việc phát triển đàn, tăng năng xuất và vệ
sinh môi trường phòng chống dịch bệnh, như vậy mới có thể đảm bảo sản lượng và chất lượng
sản phẩm khi xuất chuồng.
I.2.QUY TRÌNH CHĂN NUÔI VÀ CÁC YẾU TỐ GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
I.2.1. Quy trình chăn nuôi của các trang trại chăn nuôi lợn
Ở nước ta hiện nay chăn nuôi lợn theo quy mô trang trại thường được xác lập theo số đầu
lợn được nuôi trong một cơ sở sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời đảm bảo
cân đối giữa yêu cầu của đàn lợn và khả năng của cơ sở về nhu cầu tài chính, giống, thức ăn,
chuồng trại, cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực quản lý của cơ sở đó . cũng có thể hiểu là số
đầu lợn sau khi cai sữa có mặt thường xuyên trong một cơ sở chăn nuôi. Nếu ở cơ sở sản suất
giống thì chúng là lợn nái sinh sản và lợn đực giống. Ở cơ sở chăn nuôi tổng hợp bao gồm lợn
nái sinh sản, lơn đực giống, lợn con sau cai sữa là lợn thịt. sau đây là quy mô được đề xuất
trong chăn nuôi lợn công nghiệp; [ 25]
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
Quy mô lớn 200 - 500 nái
1000 - 2000 lợn thịt (có thể lớn hơn)
Quy mô vừa 50 - 100 nái
500 – 1000 lợn thịt
Quy mô nhỏ 30 – 50 nái
100 – 300 lợn thịt
Trước khi thả lợn con thì chuồng trại được dọn rửa, làm khô và khử trùng hợp vệ sinh. Trong
quá trình chăn nuôi phân và nước tiểu của lợn thải trực tiếp xuống nền chuồng và được công
nhân dọn rửa theo định kỳ, phân lợn được công nhân dọn và được đem trưc tiếp ra khu ủ phân
sau đó sử dụng bón ruộng, bán cho nông dân, các công ty chế biến phân vi sinh hoặc chuyển
xuồng hầm biogas theo đường ống nối với mương dẫn nước thải. Như vậy chất thải rắn phát
sinh trong quá trình chăn nuôi chỉ bao gồm; bao bì đựng thức ăn, vỏ chai lọ, túi linon đựng hóa
chất, thuốc thú y… các chất thải này co số lượng nhỏ dễ thu gom và xử lý. Hệ thống cấp nước
của trang trại phải bố trí xây dựng sao cho đủ để cung cấp cho đàn lợn với tiêu chuẩn là; [25 ]
• Lợn nái 100 lít/ngày đêm/1 con
• Lợn thịt 50 lít/ngày đêm/1 con
• Lợn con 25 lít/ngày đêm/1 con
Từ đó ta tính chung cho nhu cầu toàn trại để có lượng nước đáp ứng cho nhu cầu đàn lợn và
các hoạt động khác của trại. Nước thải của chăn nuôi lợn chủ yếu là nước tiểu của lợn và nước
vệ sinh chuồng trại vì vậy nên có hàm lượng chất hữu cơ cao do chứa cả phân chuồng.
Quá trình chăn nuôi một lứa lợn thịt khoảng từ 5-6 tháng, sau khi xuất chuồng thì chuồng
trại được dọn dẹp và để trống từ 7-15 ngày. Chuồng trại được bố trí và xây dựng sao cho
thoáng mát vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông, trong chuồng nuôi có hệ thống thông gió bằng
quạt hút để điều hòa không khí. Nhiệt độ bên trong chuồng được làm ấm bằng các bóng đèn
hoặc các bếp than trong mùa lạnh. Hệ thống làm mát được bố trí bằng các vòi phun mưa ở trên
mái chuồng trong mùa hè. Toàn bộ quy trình chăn nuôi được thể hiện theo sơ đồ tông quát ở
hình 1.1.
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
Hình 1.1; sơ đồ quá trình chăn nuôi lợn treo mô hình trang trại
I.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình gây ô nhiễm
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình gây ô nhiễm cúa các trang trại chăn nuôi lợn là các
hoạt động sản xuất, các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, các chính sách quản lý và việc
thực thi pháp luật;
• Quy mô sản xuất; quy mô sản xuất liên quan trực tiếp đến sự phát thải ô nhiễm của trang
trại, muốn tăng hiệu quả chăn nuôi thì phải tăng quy mô sản xuất,điều này có nghĩa là lượng
phát thải ô nhiễn của trang trại sẽ tăng lên theo quy mô của sản xuất.
• Vốn đàu tư; do vốn đầu tư của các trang trại không nhiều, chủ yếu là vào xây dựng
chuồng trại và con giống, hầu như không có nguồn vốn đầu tư vào việc bảo vệ môi trường nên
không giảm được phát thải. đối với các trang trai có nguồn vốn lớn hoặc đã bị nhân dân hoặc
cơ quan nhà nước nhăc nhở, kiến nghị họ sẽ quan tâm hơn trong việc xử lý chất thải và bảo vệ
môi trường.
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Thả lợn con
Quá trình chăn
nuôi lợn
(5-6tháng)
-Thức ăn
-Nước uống
-Nước tắm rửa
chuồng trại
-Thuốc thú y
-Hóa chất khử
trùng
Lợn thịtNước rửa Dọn, rửa
chuồng
Nước thải
- Phân lợn
- Nước tiểu
- Nước thải tắm rửa
chuồng trại
- Thức ăn rơi vãi
- Lượng dư hóa chất
khử trùng
- Bao bì đựng thức ăn
và hóa chất
- Lượng dư hóa
chất khử trùng
- Không khí ẩm
- Làm khô chuồng
- Khử trùng chuồng
nuôi
-Không khí khô
-Hóa chất khử
trùng
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
• Trình độ lao động; ở các hộ gia đình và ở các trang trại vừa và nhỏ thì hầu hết là của
nông dân, kiến thức về chăn nuôi đa số là do tự tìm tòi và học tập, không qua trường lớp
chuyên môn nào cả, do đó nhận thức về công tác bảo vệ môi trường và các tác hại của ô nhiễm
tới chất lượng vật nuôi, sức khỏe cộng đồng rất thấp. đối với các trang trại có quy mô lớn thì
dược đầu tư cả về vốn và kỹ thuật nên vấn đề môi trường được quan tâm nhiều hơn và triệt để
hơn, có nhiều trang trại đã xây dựng hệ thống xử lý chất thải và hệ thống khử mùi nhằm giảm
thiểu ảnh hưởng của chất thải chăn nuôi tới cộng đồng
• Sự quan tâm của các cấp chính quyền; sự xây dựng tràn lan các trang trại chăn nuôi
không theo một quy hoạch nào cùng với sự buông lỏng quản lý của chính quyền đã tạo điều
kiện cho các trang trại phát thải vào môi trường mà không cần qua xử lý
• Thực thi chinh sách và luật bảo vệ môi trường; do chưa có các văn bản về luật quy định
riêng cho lĩnh vưc này nên các trang trại không chú ý đến bảo vệ môi trường. Một mặt do các
hoạt động chăn nuôi từ xa xưa ít ảnh hưởng đến môi trường, các chất thải được xả và pha
loãng ngay trong môi trường xung quanh nên khi chăn nuôi với quy mô lớn gây ô nhiễm thì cả
chính quyền, cơ quan quản lý môi trường và người chăn nuôi đều lúng túng trong việc giải
quyết và áp dụng luật trong xử lý vi phạm
I.2.3 . Các vấn đề ô nhiễm trong trang trại chăn nuôi lợn
Trong những năm gần đây ở nước ta đã xuất hiện nhiều trang trại chăn nuôi với quy mô
vừa và nhỏ nhưng không tập chung mà phân bố phân tán nên chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn
kỹ thuật về chăn nuôi và chuồng trại dẫn đến môi trường xung quanh đang bị ô nhiễm nghiêm
trọng không những ảnh hưởng tới năng suất chăn nuôi, sức khỏe của vật nuôi mà còn ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe con người và môi trường xung quanh.
Nguồn gây ô nhiễm môi trường chăn nuôi chủ yếu là các loại chất thải và mùi hôi từ
chuồng trại, được phân ra làm hai loại là chất thải lỏng (nước tiểu của gia súc) và chất thải nửa
rắn (nước phân chuồng và phân gia súc). Hàm lượng cao của các hợp chất nitơ, phốt pho,
BOD, COD và vi sinh vật (VSV) là các thành phần chính gây ô nhiễm môi trường.
Hàng năm 1 con lợn trưởng thành có thể sản xuất ra 600-730 kg phân 1 năm.Phân lợn là
những chất liệu từ trong thức ăn, nước uống mà cơ thể lợn không sử dụng hay không tiêu hóa
được và thải ra ngoài cở thể. Phân gồm những thành phần: là những dưỡng chất không tiêu
hóa được hoặc những dưỡng chất thoát khỏi sự tiêu hóa của vi sinh hay men tiêu hóa (chât xơ,
protein không tiêu hóa được, axit amin thoát khỏi sự hấp thụ đựơc thải qua nước tiểu(urea).
Các chất khoáng dư thừa cơ thể không sử dụng như P205, K2O, CaO, MgO,… Phần lớn xuất
hiện trong phân. Ngoài ra còn có các chất như;[25]
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
• Các chất căn bã của dịch tiêu hóa ( trypsin, pepsin …)
• Các mô tróc ra từ các niêm mạc của ống tiêu hóa và chất nhờn theo phân ra ngoài
• Vật chất dính vào thức ăn: tro, bụi, cát sỏi …
• Các vi sinh vật bị nhiễm trong thức ăn bị tống ra ngoài
Lượng phân thay đổi theo lượng thức ăn và thể trọng của vật nuôi, dựa vào thể trọng và lượng
thức ăn của lợn mà ta có thể tính được lượng phân mà chúng thải ra hàng ngày. Ngoài ra nước
tiểu của lợn cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, một ngày lợn có thể thải ra 2-4 kg nước
tiểu,nước tiểu của chúng giàu đạm và thường bị trộn lẫn với phân nên là một trong những
nguyên nhân chính để gây ra ô nhiễm môi trường chăn nuôi lợn.[ 25 ]
I.2.3.1 Chất thải rắn.
Trong quá trình chăn nuôi lợn thì chất thải rắn phát sinh ở khá nhiều công đoạn nhưng chủ
yếu là phân lợn còn các chất thải rắn khác như Bao bì đựng thức ăn, dụng cụ lao động bị hỏng,
vỏ chai lọ, túi linon đựng hóa chất, thuốc thú y… các chất thải này có số lượng nhỏ dễ thu gom
và xử lý.
Do đặc tính sinh trưởng của lợn trong qúa trình sinh trưởng chúng cần một lượng lớn thức
ăn, tùy vào từng giai đoạn phát triển mà nhu cầu thức ăn của chúng khác nhau và lượng chất
thải hàng ngày cũng khác nhau. Thông thường trong một ngày một con lợn cần một lượng
thức ăn bằng khoảng 2,2-4 % trọng lượng cơ thể và thải ra lượng phân bằng khoảng 1,4-2 %
trọng lượng cơ thể. [27] Vì vậy nếu Lợn được chăn nuôi với quy mô lớn thì lượng phân thải ra
sẽ rất lớn. Nếu không được xử lý đúng cách và hợp vệ sinh thì sẽ gây ra ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của lợn, tới sức khỏe của người lao động và
cộng đồng dân cư xung quanh.
I.2.3.2 Ô nhiễm mùi.
Trong quá trình chăn nuôi lợn thì mùi sinh ra do quá trình phân hủy lượng thức ăn dư thừa,
bị rơi vãi và các chất cặn bã có trong phân và nước tiểu, mùi sinh ra trong quá trình chăn nuôi
lợn ở các trang trai chăn nuôi lợn thì vấn đề xử lý mùi là một vấn đề hết sức khó khăn.
Mùi tạo thành do một cơ chế phức tạp của các hợp chất vô cơ và hữu cơ mà ba thành phần
chủ yếu là NH3, H2S, và VOCs từ đó hình thành hơn 400 chất gây mùi [ 21 ]. Các khí sinh ra
từ phân và các chất thải khác của vật nuôi như CO2, NH3, CH4, H2S từ khu vực chôn ủ chất
thải chăn nuôi là các chất gây mùi và sinh ra một lượng mùi lớn chúng gây nguy hiểm tới sức
khỏe của người và vật nuôi.
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
Khi con người hít phải khí NH3 trên mức nồng độ cho phép là 25 mg/m3 sẽ có triệu chứng
chóng mặt, rát mắt, đau đầu. Nếu hít phải nhiều sẽ gây viêm và tổn thương đường hô hấp. Cụ
thể là bị viêm phổi và các bệnh về phổi, mức độ từ nhẹ đến nặng như sau: lưỡi khô và phồng
rộp; bỏng trong cổ họng, ho; ho co giật; khó thở một phần do co thắt phản xạ họng; mù từng
phần hoặc toàn phần; phù phổi; tử vong do xuất huyết phổi hoặc do mất phản xạ vì khó thở.
Đối với H2S, nồng độ cho phép là 15 mg/m3, đó là loại khí gây kích ứng các niêm mạc, kết
mạc và đường hô hấp khi con người hít phải. Tùy theo mức độ từ nặng đến nhẹ mà người
nhiễm khí này sẽ bị mất tri giác bất ngờ, co giật và dãn đồng tử; động kinh, ho khạc ra máu; ứ
tiết phế quản, cảm giác yếu mệt và dễ tử vong do ngạt.
Phân gồm những thành phần: là chât xơ, protein không tiêu hóa được, các chất béo, axit
amin thoát khỏi sự hấp thụ đựơc thải qua nước tiểu(urea), NH3 và H2S. Các chất khoáng dư
thừa cơ thể không sử dụng như P205, K2O, CaO, MgO,… Trên cơ sở đó mùi sinh ra do quá
trình chăn nuôi được hình thành theo cơ chế sau:
• Protein NH3, các axít hữu cơ dễ bay hơi, H2S
• Các hợp chất hữu cơ H2S, CO2, CH4…
• Các hợp chất chứa Nitơ axit hữu cơ, NH3 …
Mùi trong chăn nuôi được hình thành theo nhiều cơ chế khác nhau và rất phức tạp, đi theo
những phản ứng hóa học và chu trình sinh học nhất định.
Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) vừa thừa nhận, chăn nuôi đang được coi là một ngành
gây ô nhiễm lớn, thậm chí lớn hơn mức gây ô nhiễm của ngành vận tải. Chất thải của gia súc
toàn cầu tạo ra tới 65% lượng Nitơôxít (N2O) trong khí quyển. Đây là loại khí có khả năng
hấp thụ năng lượng mặt trời cao gấp 296 lần so với khí CO
2
. Động vật nuôi còn thải ra 9%
lượng khí CO
2
toàn cầu, 37% lượng khí Methane (CH
4
) – khí có khả năng giữ nhiệt cao gấp 23
lần khí CO
2
. Điều này có nghĩa là chăn nuôi gia súc đã được khẳng định là một tác nhân chính
làm tăng hiệu ứng nhà kính. Chăn nuôi gia súc còn đóng góp tới 64% khí Amoniac (NH
3
) – thủ
phạm của những trận mưa axit. [ 33 ]
Theo nghiên cứu của viện chăn nuôi về thực trạng môi trường chăn nuôi lợn quy mô nhỏ
(trong nông hộ) ở xã Trực Thái huyện Trực Ninh tỉnh nam Định (có 91,13% số hộ chăn nuôi
lợn) và xã Trung Châu thuộc huyện Đan Phượng của tỉnh Hà Tây (có 93,33 % số hộ chăn nuôi
lợn) thì nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí vượt mức cho phép rất nhiều lần.[33]
Bảng 1.1 mức độ ô nhiễm khí thải chăn nuôi
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trực Thái
(n=5)
Trung Châu
(n=5)
TCVN 5939-2005
NH3
mg/m3
0,90 0,98 0,2
H2S
mg/m3
0,044 0,032 0,0075
Bụi lơ lửng
mg/m3
0,138 0,032 0,2
Tổng số vsv vsv/m3 26788 10562 1500 – 1800 (1)
1250 - 1563 (2)
Nấm mốc Số bào tử/m3 1450 716 130 – 313 (2)
(1) Quy phạm tam thời của Trung tâm kiểm tra vệ sinh thú y Trung ương
(2) Tiêu chuẩn của Nga. 1991
Nồng độ NH3 và H2S ở cả 2 cơ sở đều cao hơn mức cho phép khá nhiều:
• Đối với Trực Thái là : NH3 (0,90 mg/m3) cao hơn TCVN 5938-2005 là 4,5 lần, H2S
(0,044 mg/m3) cao hơn TCVN 5939-2005 là 5,8 lần.
• Đối với Trung Châu là: NH3 (0,98 mg/m3) cao hơn TCVN 5938-2005 là 4,9 lần, H2S
(0,032 mg/m3) cao hơn TCVN 5939-2005 là 4,3 lần.
Mật độ tổng vi sinh vật và bào tử nấm tại các địa điểm nghiên cứu cao hơn nhiều lần so
với tiêu chuẩn cho phép của Trung tâm kiểm tra vệ sinh thú y Trung ương và Tiêu chuẩn của
Nga năm 1991
I.2.3.3 Nước thải.
Trong chăn nuôi lợn, nguồn nước đóng vai trò rất quan trọng nếu nguồn nước cấp cho lợn
bị nhiễm bẩn thì sẽ ảnh hưởng tới khả năng tăng trưởng của lợn. theo thống kê thì bình quân
một ngày: một con lợn nái cần sử dụng 100 lít nước/ngày đêm/1 con , Lợn thịt 50 lít/ngày
đêm/1 con, Lợn con 25 lít/ngày đêm/1 con. Lựơng nước này chủ yếu sử dụng vào việc tắm
rửa và dọn chuồng vì vậy nếu chăn nuôi lợn với quy mô lớn thì lượng nước thải hàng ngày của
trang trại sẽ rất lớn. Nước thải bao gồm nước rửa chuồng, nước tiểu và phân lợn, thức ăn rơi
vãi trôi theo nước rửa nên có hàm lượng BOD5 và COD cao
Theo nghiên cứu của viện chăn nuôi về thực trạng môi trường chăn nuôi lợn quy mô nhỏ
(trong nông hộ) ở xã Trực Thái huyện Trực Ninh tỉnh nam Định và xã Trung Châu thuộc huyên
Đan Phượng của tỉnh Hà Tây thì nồng độ các chất ô nhiễm và vi sinh vật trong môi trường đều
vượt mức cho phép rất nhiều lần đăc biệt là đối với nước thải: kết quả nghiên cứu được thể
hiện trên bảng 1.2
Bảng 1.2 mức độ ô nhiễm của nước thải chăn nuôi [ 33 ]
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Nghiên cứu ứng dụng dung dịch hoạt hóa điện hóa trong xử lý môi trường chăn nuôi lợn
Lê Viết Thiện – Lớp CNMT K26 _ QN
Chỉ tiêu Đơn vị tính Trực thái
(n=10)
Trung châu
(n=10)
TCVN 5945-2005
Tổng số vsv cfu/ml 0,396x10
7
0,35 x 10
7
Colifrom cfu/ml 0,13 x 10
6
0,21 x 10
6
E.coli cfu/ml 1,3 x 10
3
1,0x 10
3
COD mg/l 3787 4044 80
BOD5 mg/l 1092 833,7 50
Từ bảng kết quả cho thấy nồng độ COD cao hơn mức cho phép đối với nồng độ COD
cho phép trong nước thải công nghiệp loại B (80 mg/l) là 47 lần đối với ở Trực Thái và
50.5 lần đối với ở Trung Châu. còn nồng độ BOD5 cũng vượt mức cho phép trong nước
thải công nghiệp loại B (50) là 22 lần đối với ở Trực Thái và 50.5 lần đối với ở Trung
Châu. Ngoài ra còn có các vi sinh vật như Colifrom, E.coli, và một số vi sinh vật gây bệnh
khác cũng đều trên mức cho phép nhiều lần. Nếu nước thải không được xử lý mà thải ra
ngay môi trường thì sẽ gây lên ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, các chất hữu cơ trong
nước thải sẽ bị vi sinh vật phân hủy và tạo thành các hợp chất không mong muốn như
mecaptan, NH3, H2S, CH4,…( trong môi trường yếm khí) các chất này là nguyên nhân
chính gây ra ô nhiễm môi trường không khí khu vực chăn nuôi đồng thời cũng làm gia
tăng hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Nhưng trong phạm vi của đồ án này thì vấn đề nước thải chưa được đề cập để xử lý các
thông số như BOD5 và COD… mà chỉ nghiêng về xử lý vi sinh trong nước thải trước khi
thải ra môi trường.
I.2.3.4. Vi sinh vật.
Vi sinh vật có mặt ở khắp nơi trong môi trường: đối với ngành chăn nuôi lợn do đặc
tính sinh trưởng nên trong môi trường có rất nhiều vi sinh vật nguy hiểm có thể gây ảnh
hưởng tới sức khỏe con người và vật nuôi như: Coliform, Ecoli, Salmonella …
Khi cơ thể bị nhiễm các vi khuẩn trên sẽ bị một số bệnh như: Nhiễm Ecoli sẽ bị tiêu
chảy cấp tính, đau bụng, sốt nhẹ, thận có thể bị hỏng nghiêm trọng, triệu chứng tiểu ra
máu ở trẻ em. Nhiễm Salmonella sẽ bị sốt rét, tiêu chảy, đau bụng, đau đầu, kiết lỵ,
thương hàn.
Vi sinh vật tập trung chủ yếu ở phân lợn, nước thải, nền chuồng, máng ăn và phát tán
vào không khí.
Viện khoa học và công nghệ môi trường (INEST) ĐHBKHN – Tel: (84.4) 8681986 – Fax:(84.4) 8693551
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét