Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

111

Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động huy động
vốn nói chung và vốn trung và dài hạn nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho phát
triển kinh tế, sản xuất , kinh doanh. Tìm hiểu thực trạng công tác huy động vốn trung
và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Dầu khí Toàn cầu – chi nhánh Thăng
Long, từ đó đóng góp một số giải pháp, kiến nghị với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước
và với ban lãnh đạo Ngân hàng Thương mại Cổ phần Dầu khí Toàn Cầu nhằm mở
rộng huy động vốn trung và dài hạn tại chi nhánh Thăng Long đáp ứng vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là những lý luận cơ bản về vốn , vốn trung
và dài hạn và hoạt động động huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Dầu khí Toàn cầu.
Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng long trong 3 năm từ 2009 đến 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các học thuyết kinh
tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp
5. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề tốt nghiệp được chia làm 3 chương :
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân
hàng Thương mại
Chương 2 : Thực trạng huy động vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Dầu khí Toàn cầu – Chi nhánh Thăng Long
Chương 3 : Một số giải pháp kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn trung và dài
hạn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Dầu khí Toàn cầu.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành và phát triển hàng trăm năm
cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Các NHTM xuất hiện trong nền kinh tế với
tư cách là tổ chức trung gian nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có dư thừa và
trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các đơn vị kinh tế có nhu cầu vốn. Tùy theo từng
cách tiếp cận mà có những quan điểm khác nhau về NHTM, điều đó còn phục
thuộc vào tính chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng quốc gia.
Tại Mỹ khái niệm: “Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh tiền
tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính”.
Tại Pháp cũng định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay
cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên cho chính họ
trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí
gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là
cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho
vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch
vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động
chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá
nhân và tổ chức trong nền kinh tế. NHTM có chức năng điều chuyển vốn từ nơi
thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Các NHTM thu hút vốn thông qua những khoản tiền
gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó, NHTM sử
dụng nguồn vốn này để cho vay. Qua đó, NHTM làm tăng thu nhập cho người tiết
kiệm và giảm phí tín dụng đối với người đi vay.
1.1.2.2.Tạo phương tiện thanh toán
Ngày nay thanh toán qua ngân hàng đã phát triển mạnh mẽ, khách hàng có
số dư trong tài khoản tiền gửi thanh toán thì họ có thể chi trả cho các hàng hóa,
dịch vụ mà họ muốn. Khi ngân hàng cho khách hàng vay, số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, do đó khách hàng có thể dùng để mua
hàng hóa và dịch vụ. Qua đó ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền
gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi
khách hàng tại một ngân hàng sử dụng tiền vay để chi trả thì sẽ tạo khoản thu ( tức
là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó
tạo ra các khoản cho vay mới.
1.1.2.3.Trung gian thanh toán
Ngày nay NHTM trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các
quốc gia. NHTM thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và
dịch vụ. Theo đó, khách hàng sử dụng các dịch vụ của NHTM như thanh toán bằng
séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… rất nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm
chi phí. Ngoài ra NHTM còn cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các
quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Hoạt động thanh toán bù trừ giữa
các ngân hàng thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm
thanh toán cả ở trong và ngoài nước đã biến NHTM thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.3. Các dịch vụ ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Mua bán ngoại tệ
Các NHTM thực hiện việc mua bán một loại tiền này để lấy một loại tiền
khác và hưởng phí dịch vụ. Mua bán ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên
của các ngân hàng.
1.1.3.2. Nhận tiền gửi
Các ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo hộ người có tiền với cam
kết hoàn trả đúng hạn. Một trong các nguồn quan trọng trong huy động tiền gửi của
ngân hàng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng.
Do cạnh tranh giữa các ngân hàng rất gay gắt nên các ngân hàng thường
đưa ra các đợt huy động tiền gửi với các phần thưởng hấp dẫn đối với khách hàng
để nhằm huy động vốn.
1.1.3.3. Cho vay
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao và chiếm tỷ trọng lớn trong
doanh thu của các ngân hàng. NHTM được phép cho các cá nhân tổ chức vay vốn
dưới các hình thức sau:
+ Cho vay ngắn hạn( dưới 1 năm): nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ
nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống
+ Cho vay trung dài hạn( từ 1 năm trở lên): cung cấp vốn cho các dự án đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống
1.1.3.4. Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các giấy tờ có giá khác và
các tài sản khác cho khách hàng trong két ( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két).
Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy
tờ quan trọng khác của khác hàng với nguyên tắc ăn toàn, bí mật, thuận tiện.
1.1.3.5. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà
còn thực hiện lệnh chi trả cho khách hàng. Ngày nay, thanh toán không dùng tiền
mặt đang phát triển mạnh, người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để rút tiền
mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, và khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ
nhận được tiền. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể
thức thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức
thanh toán qua điện, thẻ tín dụng…nhanh chóng và chính xác, tiết kiệm thời gian
và chi phí cho người sử dụng.
1.1.3.6. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân, do đó nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ
quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho doanh
nghiệp, tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh
lợi và tín dụng ngắn hạn, cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.3.7. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng,
khi các ngân hàng được cấp phép thành lập là họ phải cam kết với thực hiện với
mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Thông
thường các ngân hàng mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định theo chỉ
tiêu quy định của Chính phủ ( thường là tỷ lệ với vốn huy động của ngân hàng).
1.1.3.8. Bảo lãnh
Dựa vào khả năng thanh toán của ngân hàng rất lớn, do đó ngân hàng có uy
tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh rất đa dạng và
phát triển mạnh, các ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình. Có các
loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thường áp dụng: bảo lãnh thanh toán, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh vay vốn…
1.1.3.9. Cho thuê tài chính
NHTM được phép hoạt động dịch vụ này nhưng phải thành lập công ty cho
thuê tài chính riêng. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn
thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân
hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn
70% hoặc 100% giá trị của tài sản thuê. Do đó cho thuê của ngân hàng cũng có
nhiều điểm giống như cho vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
1.1.3.10. Cung cấp dịch vụ ủy thác tư vấn
Ngày nay dịch vụ ủy thác phát triển, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ
ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát
triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư…
Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính để tư vấn về
đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Đây là một dịch vụ mà các ngân hàng thương mại cung cấp để nhằm thỏa
mãn các dịch vụ tài chính của khách hàng. Ngân hàng bán các dịch vụ môi giới
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác. Ngày nay các NHTM thành lập ra các công ty con là công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán nhằm cung cấp dịch vụ môi giới.
1.1.3.12. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điề đó bảo
đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng thường liên kết với các công
ty bảo hiểm nhằm cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm.
1.1.3.13. Cung cấp các dịch vụ đại lý
Các ngân hàng thường cung cấp các dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân
hàng khác như thanh toán toàn bộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.1.4. Các loại hình ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Ngân hàng sở hữu tư nhân
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Các ngân hàng
này thường là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương, gắn liền
với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương.
1.1.4.2. Ngân hàng thương mại cổ phần
Là ngân hàng được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Các ngân
hàng này thường là các ngân hàng lớn do số vốn sở hữu được hình thành thông qua
sự tập trung vốn nên các ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng.
Các ngân hàng cổ phần có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều
chi nhánh hoặc công ty con.
1.1.4.3. Ngân hàng sở hữu Nhà nước
Là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cung cấp, có thể là
Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh, Thành phố. Các ngân hàng này được thành lập
nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định theo quy định của Trung ường và địa
phương. Những ngân hàng sở hữu Nhà nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài
chính và bảo lãnh phát hành giấy nợ, do vậy có độ an toàn cao và ít khi bị phá sản.
1.1.4.4. Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng này được hình thành dựa trên vốn góp của hai hoặc nhiều bên,
thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng các ưu
thế của nhau.
1.2 . Nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM
1.2.1. Khái niệm và phân loại nguồn vốn
1.2.1.1. Khái niệm
Huy động nguồn vốn khác nhau trong xã hội là mục tiêu quan trọng nhất của
các NHTM. NHTM phải cạnh tranh với những ngân hàng khác, với các tổ chức tài
chính, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp để thu hút vốn phục vụ cho các hoạt động của
mình
Vốn của ngân hàng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản của NH
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể là vốn tự có hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
1.2.1.2. Phân loại nguồn vốn
Phân loại theo thời hạn.
Vốn ngắn hạn: Là nguồn vốn mà NH chỉ được quyền sử dụng trong thời gian
ngắn (dưới 12 tháng). Nguồn này được dùng để cho vay ngắn hạn và một phần
dùng cho vay trung và dài hạn theo một tỷ lệ nhất định.
Vốn trung và dài hạn: Là nguồn vốn mà NH được quyền sử dụng trong thời
gian dài (từ 12 tháng trở lên) để tài trợ cho các dự án trung và dài hạn. Tuy nhiên,
hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay nguồn vốn này chưa đáp ứng được nhu cầu
vốn trung và dài hạn của nền kinh tế.
Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối tài khoản của NHTM.
Vốn tự có: Để đi vào hoạt động Ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có lượng
vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên
trang thiết bị nhà cửa và được bổ sung trong quá trình hoạt động từ các nguồn lợi
nhuận chưa phân phối, trích lập các quỹ, từ NSNN cấp bổ sung ( đối với các ngân
hàng quốc doanh ) hoặc phát hành thêm cổ phiếu.
Tiền gửi của khách hàng: Là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi
trường cạnh tranh và để các chất lượng ngày càng cao, các NH đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau : tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kỳ hạn của
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư; tiền gửi của các
ngân hàng khác.
Tiền vay: Có những thời kì nhất định ngân hàng phải đi vay để đáp ứng nhu
cầu cho vay và đầu tư khi khả năng huy động bị hạn chế. Nguồn đi vay có thể vay
NHNN , vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
Vốn nợ khác bao gồm: Nguồn uỷ thác được hình thành khi ngân hàng thực
hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ
thác giải ngân; các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành
nguồn trong thanh toán; các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả….
1.2.2. Vai trò của nguồn vốn trung và dài hạn
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế
Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới , mục tiêu hàng
đầu là thông qua quá trình CNH, HĐH đất nước để phát triển kinh tế xã hội để đạt
được mục tiêu đó thì điều quan trọn.g là phải có một nguồn vốn đủ mạnh cho đầu
tư phát triển, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Quá trình huy động vốn trung và dài hạn còn góp phần thực hiện chính sách
tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, ổn định tiền tệ và kiềm
chế lạm phát. Kinh nghiệm các nước công nghiệp cho thấy, để ổn định tiền tệ và
kiềm chế lạm phát, đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh
tế, tài chính và tiền tệ. Trong đó, giải pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng
cường huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là huy động vốn qua hệ thống
NHTM. Thông qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, NHTM sẽ huy động
được khá lớn lượng tiền mặt trong nền kinh tế, thu hẹp lượng tiền mặt trong lưu
thông. Qua đó góp phần làm giảm áp lực tăng giá cả hàng hoá, ổn định mặt bằng
lãi suất huy động của nền kinh tế.
Huy động vốn trung và dài hạn còn có vai trò thúc đẩy sự hình thành và phát
triển thị trường vốn. Trong đó vai trò cốt lõi là thị trường chứng khoán. Bằng
nghiệp vụ phát hành các giấy tờ có giá trung và dài hạn trong công tác huy động
vốn, các NHTM đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập và đa dạng hoá các loại
hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động
tiền gửi từ các tầng lớp dân cư đã tạo ra tiền đề quan trọng cho việc tích luỹ vốn
của các chủ thể đầu tư trong quá trình mua chứng khoán.
Ngoài ra, huy động vốn trung và dài hạn thông qua hệ thống NHTM còn góp
phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong quá trình đầu tư phát triển,
xây dựng cơ sở hạ tầng, Hơn nữa còn góp phần đa dạng hoá các nguồn vốn đầu
tư và đẩy nhanh quá trình hội nhập vào thị trường chứng khoán quốc tế thông qua
nghiệp vụ phát hành trái phiếu quốc tế, vay mượn vốn trung và dài hạn từ các
Ngân hàng nước ngoài.
1.2.2.2. Đối với Ngân hàng Thương mại
Mọi NHTM luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận bằng các hoạt động của mình
trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ đóng vai trò chính và cũng là quan trọng
nhất. Huy động vốn và cấp tín dụng là hai nghiệp vụ luôn được tiến hành đồng thời
và diễn ra liên tục trong hoạt động của ngân hàng. Để đảm bảo an toàn, thông
thường cho vay ở kỳ hạn nào phải dùng nguồn vốn có kỳ hạn đó tương ứng. Việc
các ngân hàng có huy động được vốn hay không, đặc biệt là vốn trung và dài hạn
quyết định khả năng cho vay của ngân hàng, do đó đồng thời quyết định đến lợi
nhuận hay hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn trung và dài hạn góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân
hàng với các ngân hàng khác. Một ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi
dào đồng nghĩa với việc có một quy mô vốn lớn, khả năng thanh toán cao, sẽ giúp
ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thoả mãn
nhu cầu vốn của khác hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Với điều kiện nước ta hiện nay thị trường chứng khoán chưa thực sực hoạt
động hiệu quả trong khi nhu cầu vốn cho đầu tư ngày càng lớn thì NHTM vẫn là
kênh dẫn vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tín
dụng ngân hàng là kênh cung ứng vốn cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế
ở nước ta trong suốt 20 năm qua. Dư nợ tín dụng ngân hàng tăng trung bình
khoảng 25%/năm và hiện chiếm khoảng 50% GDP. Có được điều đó, hệ thống
NHTM Việt Nam đã sử dụng mọi biện pháp nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư để tài trợ lại nền kinh tế. Vì vậy, nhờ nguồn vốn trung và dài hạn huy
động được mà ngân hàng đã thực hiện tốt chức năng của mình.
1.2.3. Nội dung hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của Ngân hàng
Thương mại
1.2.3.1. Huy động tiền gửi trung và dài hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng mà có sự thoả
thuận về thời gian rút tiền giữa ngân hàng với khách hàng. Như vậy, về nguyên tắc,
khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thoả thuận.
Tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các loại tiền
gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kì hạn với thời
gian càng lâu lãi suất sẽ càng lớn bởi thời gian càng dài thì rủi ro sẽ càng tăng lên
mà trước hết là ảnh hưởng của lạm phát. Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có
kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với tiền gửi không kì hạn. Lí do ở đây là ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn ổn định và kiếm được nhiều lợi nhuận
hơn. Vì thế tiền thù lao trả cho khách hàng cũng phải cao hơn để kích thích sự gửi
tiền nhiều nữa.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi định kỳ là tiền tạm thời nhàn rỗi
hoặc tiền để dành của cá nhân, vì vậy, mục đích gửi tiền vào ngân hàng nhằm kiếm

Xem chi tiết: 111


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét