LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới": http://123doc.vn/document/1052958-van-de-con-nguoi-nguon-luc-con-nguoi-trong-qua-trinh-xay-dung-nen-kinh-te-moi.htm
trong nền triết học Pháp thời cận đại (ông cho bản chất của con người là bản chất
phi kinh nghiệm của lí tính) và Hêghen trong nền triết học cổ điển Đức (ông cho
rằng bản chất con người đó là lí tính tuyệt đối) … Đối lập với các nhà triết học duy
tâm, thì các nhà triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lí giải
bản chất con người và các vấn đề có liên quan. Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết
học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người,
coi con người cũng như vạn vật tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên
từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrít về bản tính vật chất nguyên tử cấu
tạo nên thể xác và linh hồn con người. Những quan niệm duy vật như vậy đã tiếp
tục phát triển trong nền triết học Phục Hưng và Cận Đại mà tiêu biểu là các nhà
duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII, nó cũng là những tiền đề lí luận của chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Ông đã tiến một bước đáng kể về nhận thức
của con người. Ông khẳng định rằng: ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là
sản phẩm của tinh thần, mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song
khi xem xét con người, ông lại tách con người ra khỏi mối quan hệ nhất định của
họ, không đặt họ trong những điều kiện sinh hoạt nhất định. Ông chỉ coi con người
là “đối tượng cảm tính” mà không coi con người là hoạt động cảm tính.
- Nhìn chung các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác-xít còn có
một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lí giải các vấn đề triết
học về con người. Do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu
tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lí giải nhân
sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Kế thừa những quan điểm trước đó và khi phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác
đã khái quát bản chất con người qua câu nói : “Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo
vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa các quan hệ xã hội ”. Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
7
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
niệm con người, bản chất con người, ông chỉ rõ hai mặt của con người là mặt sinh
học và mặt xã hội đặt trong mối quan hệ giữa chúng.
a) Bản chất sinh học của con người
Mác xem xét con người với tư cách là cá nhân sống, Mác viết: “vì vậy điều
cụ thể đầu tiên phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan
hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự nhiên”. Trước
hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất. Cũng như mọi động
vật khác, con người là bộ phận của tự nhiên hay nói cách khác, giới tự nhiên là
thân thể vô cơ của con người nên con người chịu sự chi phối của các quy luật
khách quan. Trong đó có những quy luật sinh học (đồng hóa – dị hóa, biến dị - di
truyền, tương quan giữa cơ thể và môi trường…). Và cùng điều kiện khách quan đã
tạo nên những nhu cầu sinh học của con người như ăn, ngủ, giao tiếp, nhận thức,
duy trì nòi giống … Để thích nghi và tồn tại được, cũng như bao loài vật khác con
người cũng phải đấu tranh sinh tồn. Từ đó đã định ra phương hướng và mục đích
hoạt động của con người nhằm phục vụ lợi ích cho mình. Tuy nhiên, Mác không
thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính
sinh học và bản năng sinh vật của con người. Con người có đầy đủ các đặc trưng
của sinh vật tuy nhiên cũng lại có nhiều điểm phân biết với các sinh vật khác.
Trước Mác cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã có những tiêu chí khác nhau phân
biệt giữa con người với các động vật khác như: con người khác con vật ở chỗ con
người biết sử dụng công cụ lao động (Phrankim) Arixtốt đã gọi con người là “một
động vật có tính xã hội”, Pascal thì nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức
mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định đó đều đúng
khi nêu lên một khía cạnh nào đó của con người tuy nhiên lại phiến diện vì không
nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ giữa chúng với
nhau. Với phép biện chứng duy vật, Mác đã chỉ ra được vai trò của lao động tạo ra
của cải vật chất “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
8
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự
tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con
người đã làm thay đổi, cải biến tự nhiên (con người chỉ sản xuất ra bản thân nó còn
con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên).
Kết luận: Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người và là tiền đề cho việc thể hiện bản chất xã hội của con người.
b) Bản chất xã hội của con người
Con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
- Con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội.
Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan
hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hôi. Trong đó quan hệ
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ
khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người, mà quan hệ đầu
tiên là quan hệ sản xuất. Vậy con người có tính xã hội, được biểu hiện trước hết
trong hoạt động sản xuất vật chất. Trong hoạt động sản xuất vật chất con người
không thể tách khỏi xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ cho đời sống của mình, đồng thời
hình thành và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy và
tư duy cũng chính là điểm phân biệt con người và các loài động vật khác. Tư duy
của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội mà trước hết là hoạt
động sản xuất. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
9
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
của con người, đồng thời hình thành nên nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội.
- Con người là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội
C. Mác đã nêu luận đề của mình trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc:
“Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội ”.
Luận đề trên đã khẳng định: không có con người trừu tượng thoát li mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch
sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong mối
quan hệ đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan
hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình. Từ
đó, con người có các nhu cầu xã hội được đáp ứng trên nền tảng đáp ứng nhu cầu
sinh học của con người.
Kết luận: Mặt thứ hai của bản chất con người đó là tổng hòa của những quan
hệ xã hội, giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu sai lệch về
mặt tự nhiên - cái sinh vật ở con người.
c) Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
10
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng giữa bản chất
sinh học và bản chất xã hội của con người là một sự thống nhất không tách rời. Mặt
sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng, bản
chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để
mang giá trị văn minh của con người và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể
thoát li khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Kết luận: Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo
thành CON NGƯỜI, con người tự nhiên – xã hội.
1.2. Nguồn lực con người
Con người sáng tạo ra lịch sử của mình và cũng là sản phẩm của lịch sử.
C. Mác khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người
là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… Cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nàh giáo dục cũng
cần phải được giáo dục ”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên Ph. Ăngghen
viết: “Con người càng xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bào nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là một thực thể của xã hội, con người tác động vào tự nhiên,
cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. Không có
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Mặt xã hội
Mặt sinh học
11
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất
định của xã hội. Mặc dù, con người sáng tạo ra lich sử của mình, song vài trò quyết
định sự phát triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay các cá nhân có phần
đặc biệt.
- Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự biến đổi trong xã hội là do ý chí của
đấng tối cao, là do “mệnh trời”, ý chí đó là do cá nhân thực hiện.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua
chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng
tiêu cực, là “phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.
- Những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng
không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó. Có người đề cao vai trò của
quần chúng nhân dân nhưng lại phủ nhận hoàn toàn vai trò của cá nhân đặc biệt.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng Đế, thần linh
nhưng lại cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo
đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.
- Còn chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò của
quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò
cá nhân điển hình là lãnh tụ với quần chúng nhân dân trong lịch sử phát triển cảu xã
hội.
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, được thể hiện
ở các mặt:
- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp
sản xuất ra của của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và sự phát triển của của xã
hội.
Con người muốn tồn tại thì phải có những điều kiện vật chất hết sức cần thiết
đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở… mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua
sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
12
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
gồm lao động chân tay và lao động trí óc. Thực tiễn sản xuất là cơ sở và động lực
của sự phát triển khoa học kĩ thuật và khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao
động của quần chúng nhân dân lao động. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản
xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản đề quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
- Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành
mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cách mạng xã hội sẽ xảy ra khi
QHXH không còn phù hợp với LLSX để xoá bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới
phù hợp với sự phát triển của LLSX mới. Quần chúng nhân dân luôn là lực lượng
cơ bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó thực sự là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân chứ không phải của một vài cá nhân.
- Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất
tinh thần.
Hồ Chí Minh nhận định “ Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là
những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa Những sáng tác ấy
là những hòn ngọc quý”.
Vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch sử,
vai trò đó được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói
buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán còn lạc hậu và
được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng.
Theo quan điểm Mác- Lênin vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân
trong lịch sử không tách rời nhau trái lại có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân
ưu tú lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ của phong trào quần chúng nên sức
mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lênin viết “ Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị, nếu nó không đào tạo ra
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
13
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong
cúa đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào ”. Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá
rất cao vai trò của cá nhân anh hùng của lãnh tụ trong sự phất triển của lịch sử
nhưng kiên quyết chống lại tề sùng bái cá nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn xa lạ với hệ tư tưởng
của giai cấp vô sản.
2. Cơ sở thực tế
Nước ta đang tiến hành quá trình xây dựng nền kinh tế mới kinh tế thị trường
có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền
kinh tế ấy thì vấn đề con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Con người là mục tiêu đồng thời cũng là động lực của sự phát triển kinh tế-
xã hội. Là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, con người đã thỏa mãn nhu cầu của mình
bằng cách góp phần đưa xã hội đi lên. Tiềm năng phong phú đa dạng của xã hội
loài người, là nguồn tài nguyên vô tận, quý báu nhấtvà ngày càng phát triển cùng
với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Trong nền kinh tế thị trường thì động
lực con người càng thể hiện rõ hơn trong nền sản xuất hàng hóa-nền sản xuất có sự
ứng dụng rộng rãi của các tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
Sau chiến tranh, với nền kinh tế bao cấp, nước ta đã rơi vào tình trạng trì trệ
kém phát triển. Từ thực trạng đó, tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn
lại chặng đường đã qua và đã có những bước đi mới đó là chuyển đổi cơ cấu kinh
tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Với sự thay đổi đó thì vấn đề
con người được quan tâm chú trọng nhiều hơn và có nhiều cơ hội để phát huy vai
trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
II. Thực trạng các vấn đề nghiên cứu
1. Truyền thống con người Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
14
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Giá trị đạo đức truyền thống là tiền đề cơ bản để tạo dựng nên đạo đức lành
mạnh của xã hội, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc phát huy
mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của thị trường.
1.1. Mặt tích cực
Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống của con người Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ bao đời nay, như Lênin
đã viết chủ nghĩa yêu nước là “… một trong những tình cảm sâu sắc nhất được
củng cố qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm của các tổ quốc biệt lập”. Yêu nước
đối với mỗi người dân Việt Nam là đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên hàng
đầu, chăm lo xây dựng đất nước, kiên quyết đấu tranh chống đô hộ và xâm lược,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng yêu nước
là động lực tinh thần to lớn, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng đất nước hiện nay. Có thể nói lòng yêu nước, thương người là giá trị định
hướng của các giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống Việt Nam, là cơ sở chủ nghĩa
anh hùng, là tinh thần đoàn kết… của nhân dân ta.
- Người Việt Nam ta còn có truyền thống hiếu học từ ngàn xưa. Mặc dù
nước ta còn nghèo nàn lạc hậu nhưng không vì thế mà truyền thống hiếu học của ta
bị giảm sút. Ngược lại, chúng ta đã thể hiện tài năng, hiểu biết, kiến thức của mình
trên mọi lĩnh vực trong khu vực và trên thế giới.
- Gắn với truyền thống hiếu học còn có truyền thống tôn sư trọng đạo.
Nước ta có ngày 20/11 hàng năm là ngày nhà giáo Việt Nam để thể hiện lòng biết
ơn đối với các thầy cô giáo đã có công dạy dỗ chúng ta nên người. Cùng với đó, là
các mối quan hệ cộng động như quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm tiếp tục được
phát triển và ngày càng tốt đẹp. Đây là nét đẹp văn hóa của dân tộc ta và là khuynh
hướng chủ đạo chi phối tâm thức và hành vi của người Việt Nam hiện nay.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
15
Vấn đề con người - nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới
Bên cạnh những giá trị truyền thống đó thì trong điều kiện kinh tế mới hiện
nay, nó đã được kế thừa và phát huy một cách tích cực theo hướng hiện đại hóa phù
hợp và đáp ứng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
1.2. Hạn chế
Cuộc sống theo cơ chế thị trường “có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với
bản chất của chủ nghĩa xã hội ” (Đảng cộng sản Việt Nam) làm cho nhiều giá trị
truyền thống cũng được thay đổi theo hướng đó, dần làm mất đi bản sắc dân tộc.
Hiện tượng suy thoái về đạo đức do ham muốn làm giàu bằng mọi giá đã dẫn
tới một số người đến với những hành vi vi phạm lợi ích của cộng đồng như tham
nhũng, làm ăn bất lương (buôn lậu, làm hàng giả…) và sa vào các tệ nạn xã hội
khác (trộm cướp, cờ bạc…) làm thiệt hại lớn cho nhà nước. Những tệ nạn xã hội
trước đây chỉ diễn ra tự phát với quy mô nhỏ thì nay có nguy cơ lan rộng và mang
tính tội phạm có tổ chức cao với hình thức tinh vi hơn và quy mô không chỉ giới
hạn ở một quốc gia mà là xuyên quốc gia.
Bên cạnh đó, các di sản văn hóa dân tộc cũng không được quan tâm đúng
mức. Theo số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy: Số người thăm viếng các
công trình văn hóa, di tích lịch sử của quê hương đất nước chiếm tỉ lệ rất nhỏ
(khoảng dưới 10%) và đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống, số người ham
thích cũng ở mức hạn chế (chèo khoảng 18,59%, tuồng khoảng 6,8% ). Xã hội
phát triển đi liền với nó là những quan niệm về đạo đức mới cũng ngày càng phát
triển, con người mới nhìn xã hội theo cách riêng của họ mà đôi khi xem nhẹ giá trị
truyền thống.
Nền giáo dục của nước ta hiện nay đang phát triển mạnh. Việc tiến hành phổ
cập tiểu học đã giải quyết được hơn 90% nạn mù chữ ở nước ta. Bên cạnh những
thành tựu mà ta đã đạt được về mặt giáo dục nhưng vẫn còn có những chính sách
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét