LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Truyện thiền số 3": http://123doc.vn/document/1056173-truyen-thien-so-3.htm
đạo đức thánh thiện của ông.
Một ngày kia, có một người con gái trẻ đẹp nhà gần chùa của thiền sư
bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô
gái vô cùng tức giận và xấu hổ nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai
lịch tình nhân của cộ Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng
sau cùng vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Ha kuin.
Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên
chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai
tiếng "Thế à!"
Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho
Hakuin nuôi. Trong thời này, Hakuin đã bị tai tiếng và nhiều người chê
bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không,
dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu gì đến ông cả.
Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bồng nó đi xin sữa khắp nơi.
Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt hối hận nên đã thú thực với
cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin mà là một chàng
thanh niên làm việc ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu
tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về.
Thiền sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, thốt lên hai tiếng "Thế à!"
Đời sống thánh thiện là gì? Bạn định nghĩa trong sạch như thế nào?
Thực ra, những gì bạn định nghĩa "đạo đức, trong sạch, v.v đều không
phải là sự trong sạch, đạo đức thực sự. Vì sao? Vì "Đạo Đức, Trong
Sạch" mà đặt trên một tiêu chuẩn nào thì không phải là Đạo Đức hay
Trong Sạch đúng nghĩa. Cái thứ đạo đức mà bạn đang nói đó chỉ là một
sự tính toán, đo lường, định mức - một sự tính toán luân lý mà thôi. Cái
thứ đạo đức đó không phải là đạo đức của bậc Thánh Nhân. Cái thứ
đạo đức có tiêu chuẩn, có tính tóan đó là thứ "đạo đức giả hiệu", là thứ
"đạo đức tối nghĩa".
Chúng ta cần phải luận bàn rõ ràng điểm này. Nếu bạn chịu khó suy
nghĩ sâu xa hơn nữa với Trí Tuệ, bạn sẽ hiểu một vị Thánh thế nào, một
người thông minh thế nào, một người có kiến thức thế nào. Nếu bạn
hiểu đúng đắn thì tất cả sự việc sẽ diễn biến đúng; nếu bạn hiểu sai thì
vạn sự đều sai.
Sự Thánh Thiện chân xác, vô tư như đứa bé con. Đầu óc một đứa bé
con thật trong sáng. Đứa bé không biết phân tích, chia chẽ. Đứa bé
không bao giờ tách rời và đánh giá sự kiện: đây là Chúa, đây là quỉ sứ;
cái này tốt, cái kia xấu, cái này đúng, cái kia sai, v.v và v.v - nhưng sự
thánh thiện đạo đức theo ý bạn là sự lựa chọn, đánh giá. Bạn đã làm
một sự phân chia ranh giới Thiện Ác rõ ràng, bạn đã chia cắt thực tại và
sự chia cắt đó không bao giờ dẫn đường bạn tới Chân Lý.
Sự Vô Tư Thánh Thiện chỉ nẩy mầm đơm bông khi hiện hữu không bị
chia cắt. Bạn đón nhận nó y như nó là. Bạn không chọn lựa, không chia
chẽ, không đánh giá một sự kiện nào. Bạn phải vượt lên trên ranh giới
chia hai đó, bạn phải vượt lên trên những định mức, tiêu chuẩn đặt ra
bởi đầu óc hẹp hòi thiên kiến của người đời thì bạn mới hy vọng nắm
bắt được Chân Lý Tuyệt Đối. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta phải dùng trí tuệ
phân biệt đúng sai nhưng đừng để bị dính mắc vào tư kiến phân biệt đó
để tâm tư, tầm nhìn chúng ta không bị đóng khung vào những tiêu
chuẩn định mức giả tạm. Sự việc này "đúng", "phải" là đúng phải như
thế nào? Con người kia hành động "sai", "trái" là sự sai trái ra sao? Có
phải chăng là do một số đông người chấp nhận đồng ý đó là giá trị luân
lý xã hội thì chúng ta cho hành động này là đúng theo góc độ đạo đức
này, việc làm kia sai theo góc độ luân lý kia v.v. và v.v Những bảng giá
trị định mức đạo đức luân lý đó từ đâu phát sinh rả Có phải chăng cùng
từ tư kiến chủ quan của một vài người nào đó đề xướng ra và gặp may
được mọi người hoan nghinh công bố.
Để tôi kể cho bạn nghe một nghịch lý như sau:
"Khalil Gibran đã viết một câu truyện thật hay, thật tuyệt: "Có một vị tu sĩ
đang vội vã đi về phía nhà thờ. Ngay trên đường đi, ông ta bỗng thấy
một người đàn ông sắp chết. Người này bị mất máu nhiều, đang hấp
hối; có lẽ hắn bị kẻ nào đó tấn công quá nặng - hắn bị thương nhiều
nơi, máu me tràn lan.
Vị tu sĩ này đang gấp đi, ông ta phải đến nhà cầu nguyện đúng giờ,
nhiều tín đồ đang đợi ông ta giảng đạo. Nhưng ông ta là một con người
đạo đức (tôi nói ông ta "đạo đức" chứ không nói ông ta "thánh thiện").
Ông ta tự nghĩ mình sẽ làm gì trong trường hợp này. Ông ta suy tính:
"Tốt hơn hết là phải cứu kẻ sắp chết này. Đó là những gì Chúa Giê Su
đã dạy. Nên quên nhà thờ đi, những con chiên đi; họ có thể đợi một
chút mà - nhưng kẻ này phải được giúp đỡ liền, nếu không hắn sẽ chết
mất."
Và rồi ông tu sĩ này tiến đến gần người đàn ông hấp hối đó, nhưng
ngay phút ông ta nhìn tận mặt kẻ sắp chết, ông ta bỗng giật thót người
lại, bàng hoàng. Bộ mặt này nhìn có vẻ rất quen thuộc, có vẻ rất ư là tội
lỗi. Và ông tu sĩ này chợt nhớ là ở nhà thờ ông ta có một bức tranh vẽ
tên Tội Lỗi - và đúng rồi, đúng là người này rồi. Đúng là tên Tội Lỗi,
chẳng có ai khác đâu. Ông tu sĩ hốt hoảng chạy về phía nhà thờ.
Tên Tội Lỗi ngóc cổ dậy gọi lớn:
"Nè tên linh mục kia! Hãy nghe đây. Nếu ta chết, ngươi sẽ hối hận mãi
mãi đó nghen. Vì nếu ta chết đi, nếu tội lỗi không còn, thì Chúa nhà
ngươi sẽ ở đâu? Nếu cái Xấu mất hết, thì cái Tốt cũng không còn đất
đứng nữa! Nhà ngươi có mặt bởi vì có Ta, cái Tốt được nêu lên vì có
cái Xấu đối lập, Chúa hay Thượng Đế, Thánh Thần hiện hữu vì có Tội
Lỗi đứng kề bên! Hãy nghĩ kỹ đi!"
Ông linh mục dừng lại. Tên Tội Lỗi kia nói đúng, đúng thật. "Nếu tội lỗi
không còn thì địa ngục cũng đâu có. Và nếu không có sự sợ hãi thì ai
sẽ tôn thờ Chúa nữa? Tất cả những lời cầu nguyện, van xin thống thiết
kia đều bắt nguồn từ sự Sợ Hãi. Bạn sợ hãi, tình yêu của bạn đối với
Thiên Chúa cũng dựa trên sự sợ hãi tội lỗi và trừng phạt. Cái tốt đẹp
của bạn cũng được đo lường qua sự tội lỗi. Chúa, Thượng Đế hay
Thánh Thần gì gì đi nữa đều cần có tên tội lỗi này."
Tên Tội Lỗi lại lải nhải tiếp:
"Chúa cần ta đó! Tin ta đi, Chúa không thể nào không có tạ Tất cả
thánh đường, đền thờ sẽ sụp đổ và sẽ không còn một con chiên, một
tín đồ nào nếu không có tạ Và ngươi sẽ không tìm thấy một người tôn
giáo nào nếu ta không còn có mặt trên đời này. Ta dụ dỗ bọn chúng, ta
mê hoặc con người; qua sự dụ dỗ mê hoặc của ta, các ngươi trở thành
những tên đạo đức. Ngươi có bao giờ nghe là có một tên đạo đức nào
lại không bị lọt vào cạm bẫy của tội lỗi không? Tất cả đều bị ta dụ dẫn
hết. Chính ta tạo ra bọn chúng; chính ta tạo ra bọn đạo đức đó. Hãy
quay lại đây!"
Ông linh mục do dự một chút, nhưng quả thực tên Tội Lỗi ranh ma này
có lý - và hắn có lý một cách rất "người". Ông ta lắp bắp: "Ông nói có lý
thật. Quả thực ông rất có lý. Chúng tôi sẽ ra sao, sẽ về đâu nếu không
có ông?" và vị linh mục kia vác tên Tội Lỗi lên vai cõng hắn tới nhà
thương. Ông ta đợi ở đó cho tới khi biết chắc rằng tên Tội Lỗi kia sẽ
qua được cơn nguy hiểm và sống sót - và một khi tên Tội Lỗi sống sót
thì nhà thờ, đền đài, các tu sĩ, các tôn giáo sẽ tồn tại.
Vị linh mục kia quả thực là một người đạo đức, nhưng không phải là
một người thánh thiện. Cuộc đời của ông ta là cả một chuỗi dài tính
toán, đo lường; và một khi bạn tính toán thiệt hơn thì bạn đã thua cuộc
rồi vậy; một khi bạn chia chẻ cuộc đời ra, biến nó thành một bài toán lô
gích thì không có cách gì bạn thắng cuộc được. Trận chiến giữa Ác và
Thiện, giữa Tội Lỗi và Đạo Đức đã quyết định - bạn là người thua cuộc.
Một con người trong sáng vô tư không phân biệt thánh phàm, thiện ác,
tốt xấu, tội lỗi hay đạo đức. Một con người trong sáng hoàn toàn sống
với sự thuần khiết nội tâm, không tính toán so đọ Người đó thật giản dị,
trung thực và thanh khiết. Người đó sống an lạc trong phút giây hiện tại,
lúc này ngay bây giờ chứ không trôi về quá khứ hay bay bổng theo
tương lai. Danh từ "Qúa Khứ" "Tương Lai" không có nghĩa lý gì đối với
người đó. Chỉ có phút giây Hiện Tại là quan trọng.
Nhưng cái Đạo Đức của bạn Cái đạo đức của bạn đó được cấu tạo ra
bởi các vị tu sĩ và các tu sĩ đó sánh vai với tên Tội Lỗi; tên Tội Lỗi và
các tu sĩ không thể tách rời, họ cần có nhau để tồn tại. Vì thế, cái vỏ
đạo đức mà bạn đang đánh bóng đó không phải là sự thánh thiện,
không phải là sự trong sáng vô tự Song, nếu hễ có người nào hành xử
có vẻ đạo đức theo cách bạn nghĩ thì bạn sẽ tôn sùng, vinh danh người
đó ngaỵ Bạn sẽ gọi người đó là vị thánh, là một người đạo đức. Những
vị thánh, những người đạo đức đó chẳng qua chỉ là những hình nộm
được khoác áo qua sự nhận xét đánh giá của bạn. Cái tiêu chuẩn, cái
giá trị luân lý định mức đó chỉ là cái vỏ che dấu sự sợ hãi, và sự trá
hình đó thật khéo léo đến nỗi bạn cũng bị đánh lừa, bạn tự lừa dối mình
luôn.
Krishnamurti đã từng nhấn mạnh rằng không nên lựa chọn, không được
lựa chọn gì cả; một khi bạn thích tính toán lựa chọn, bạn đã sai lầm rồi
vậy. "Hãy nhận thức, hiểu biết, đừng chọn lựa so đo - ngay cả cái
"Không Chọn Lựa", cũng phải vứt bỏ luôn. Hãy đơn giản hiểu rằng,
những gì bạn chọn lựa so đo để hành xử đều phát xuất từ đầu óc tính
tóan của bạn. Cái thứ đầu óc đó chỉ có thể tạo ra những giấc mộng,
chứ nó không thể nào dẫn bạn tới Chân Lý được. Chân Lý luôn luôn
hiện hữu trước mặt chúng ta, không cần phải tạo ra. Chỉ cần chúng ta
nhìn thật trung thực, đúng đắn; một cái nhìn không phân biệt thì Chân
Lý tức thời hiện hữu.
Một con người trong sáng vô tư không phải là một chiến sĩ; người đó là
vị thánh; nhưng con người của đạo đức xã hội là một chiến sĩ, không
phải là thánh nhân. Dù đó là trận chiến nội tâm, bạn đang chiến đấu với
chính bạn chứ không phải với người nào khác thì trận chiến vẫn là trận
chiến; chỉ khác danh từ một chút là trận chiến bên ngoài hay trận chiến
bên trong mà thôi; thực nghĩa danh từ chiến đấu vẫn là một với thắng
bại, hơn thua, vẫn là ranh giới hai bờ đối đãi.
Con người của sự trong sáng thánh thiện đúng nghĩa không cần phải
chiến đấu, không cần phải đàn áp hay bao vây cái gì. Chẳng có cái gì
phải chiến đấu, chẳng có người nào cần phải đàn áp. Người đó đi đứng
an nhiên tự tại vượt Không - Thời Gian, không bị ràng buộc dính mắc
mà cũng không trói chèn ai cả. Tự Do Tuyệt Đối!
Nếu bạn thấu hiểu toàn triệt vấn đề, bạn mặc nhiên đón nhận mọi việc,
và thái độ đón chào đó dẫn đường bạn tới sự trong sáng toàn thiện, và
sự trong sáng đó cũng không cần được ai vinh danh bốc thơm cả.
Chân Lý mãi mãi vẫn là Chân Lý. Chân Thiện Mỹ mãi mãi là Chân
Thiện Mỹ. Dù có hay không có ai nhắc tới thì sự thực vẫn là sự thực,
không thay đổi. Tuy nhiên, đạo đức thì lại khác. Đạo đức thuộc về một
quốc gia; thánh thiện thì không biên giới. Đạo đức thuộc về một thời đại
nào đó; thánh thiện thì vô kỳ. Đạo đức thuộc về một xã hội nào đó,
nhiều môi trường xã hội khác nhau thì có nhiều mẫu đạo đức khác
nhau - nhưng thánh thiện thì chỉ có một. Dù bạn đi bất cứ nơi đâu,
thánh thiện vẫn chỉ là một; như mùi vị nước biển, chỉ có một vị là mặn,
giáo lý đạo Phật chỉ có một vị là vị giải thoát. Đức Phật, Chúa Giê Su,
hay Ramakrishna, những bậc Thánh vĩ đại này đều chỉ có mục đích là
ban vui cứu khổ cho chúng sanh. Nhưng con người của đạo đức thì lại
khác. Nếu họ là tín đồ Ấn Độ giáo thì cách hành xử của họ lại khác với
người đạo Hồi, khác với người đạo Thiên Chúa. Con người của đạo
đức phải theo những mẫu mã, luật lệ, qui ước của xã hội họ đang sống.
Có nhiều xã hội thì khuôn mẫu đạo đức cũng có cả triệu thứ. Xã hội
thay đổi thì khuôn mẫu đạo đức thay đổi. (ghi chú thêm của người dịch
cho dễ hiểu: Thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Hoa, người dân lấy
tôn chỉ đạo đức của Đức Khổng Phu Tử làm kim chỉ nam xây dựng xã
hội, qui chế. "Tam Cương" ( quân, sư, phụ) và "Ngũ Thường" (nhân,
nghiã, lễ, trí, tín ) là gốc đạo đức, là khuôn phép hành xử của người
dân. Nhưng đến nay, cơ chế thay đổi, xã hội thay đổi, cái khuôn mẫu đã
được tôn trọng ngàn năm đó đã thay đổi theo thời đại, theo quan niệm
mới để phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại).
Chân Thiện Mỹ thì vĩnh cửu - vượt Thời gian, Không gian, không giới
hạn bởi quốc gia, dân tộc, môi trường xã hội, v.v Chân Thiện Mỹ vượt
qua tất cả những gì do con người định đặt, tạo tác.
"Thiền Sư Hakuin được mọi người xung quanh trọng vọng kính nể vì
phong cách đạo đức thánh thiện của ông."
Những người đó thực sự không biết gì cả; họ không biết rằng những lời
khen, tâng bốc đó không ảnh hưởng chút nào tới thiền sư Hakuin. Họ
cho rằng "Hakuin là một người đạo đức" nhưng thực ra, Hakuin không
phải mẫu người đạo đức theo cách nghĩ của họ. Hakuin là một người
thánh thiện, một người chân tịnh. Hakuin là một người tôn giáo, và hãy
nhớ sự khác biệt này - Hakuin là người đã đạt tới Chân Thiện Mỹ vĩnh
cửu; nhưng mọi người xung quanh Hakuin không thể nào thấu đáo
được sự khác biệt giữa đạo đức và sự thánh thiện vượt ra ngoài qui tắc
đạo đức luân lý đời thường. Người ta cũng có thể nghĩ rằng Hakuin là vị
thánh, nhưng Hakuin không phải là vị thánh theo quan niệm của họ.
Hakuin là bậc thánh, nhưng không phải là bậc thánh theo sự đánh giá
định mức của họ. Những tiêu chuẩn, qui tắc của người đời không thể
áp dụng vào thiền sư Hakuin. Bạn phải quăng bỏ đi những đánh giá
phán xét của bạn và chỉ "nhìn", nhìn bằng con mắt thứ ba, mắt trí tuệ,
mắt nội tâm thì bạn mới thấy được chân tướng một vị thánh.
"Một ngày kia, người con gái nhà gần chùa thiền sư Hakuin bị chửa
hoang. Cha mẹ cô ta giận dữ đánh đập cô ta để tra hỏi lai lịch cha đứa
bé, và cô ta đã nói đó là Hakuin. Bị cha mẹ cô gái mắng nhiếc thậm tệ,
Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai tiếng "Thế à!"
Thiền sư Hakuin không chấp nhận cũng không phủ nhận. Hakuin không
nói "Tôi không chịu trách nhiệm chuyện này". Hakuin cũng không nói
"Tôi chịu trách nhiệm chuyện này." Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai
tiếng không ăn nhập vào đâu hết "Thế à!"
"Thế à!" nghĩa là thế nào? Nó có nghĩa là một sự nhận chịu ngay cả khi
sự nhận chịu đó không cần thiết phải có. Bởi vì khi bạn nói "Tôi chấp
nhận" thì tận cùng thâm tâm của bạn không ưng chịu; bạn đã chối bỏ
nhưng bạn ép bụng mà nhận. Hakuin không nói "Có" cũng không nói
"Không". Hakuin không cần phải tranh cãi vô ích. Nếu người ta đã gán
cho ông cái tội như vậy, thì nếu càng biện hộ lại càng làm cho mọi
người nghi ngờ hơn. Hakuin không chọn lựa, không tranh cãi gì cả. Hãy
nhớ một điều là "nếu ta càng biện hộ tranh cãi thì càng nói lên sự sợ
hãi, khuyết điểm của ta vậy."
Nếu Hakuin chỉ là một vị sư bình thường, một người đạo đức bình
thường, một người được coi như là vị thánh, thì Hakuin sẽ chống trả tự
bào chữa ngay là ông không phải là cha đứa bé đó, rằng ông không hề
phạm tội, rằng ông trong sạch, rằng ông bị người ta vu oan v.v. và v.v
ngay cả nếu ông có phạm tội, ông cũng không nhận. Một người đạo
đức, một người được mọi người tôn trọng như một vị thánh, sẽ phủ
nhận quyết liệt ngay nếu họ không phạm tội - nhưng Hakuin, thiền sư
Hakuin không hề bào chữa, không hề biện minh điều gì, cũng chẳng nói
nói lời gì ngoài hai tiếng "Thế à!"
Cái gì đã xảy ra trong tâm Hakuin? Không, không có gì cả. Hakuin chỉ
lẳng lặng nghe những lời buộc tội đó, chỉ điềm nhiên nghe những lời
khinh chê báng bổ đó, Hakuin không phản ứng cách này hay cách
khác. Ông không nói có cũng chẳng nói không. Nội tâm không xao
động, phong cách vẫn an nhiên tự tại, Thiền sư Hakuin đón nhận đứa
bé với tinh thần vô quải ngại, vô úy.
Một khi ta phản ứng, một khi ta nói cái này đúng, cái kia sai, cái này có,
cái kia không, thì ta đã bộc lộ sự sợ hãi của ta rồi. Chỉ có Sợ Hãi mới
đưa đến phản ứng chống trả lại. Còn tinh thần không sợ sệt, không
khuất lấp, không ngại ngần sẽ đưa đến bình tĩnh an nhiên trước nghịch
cảnh. Vì sao? Vì chính tinh thần vô quải ngại, vô úy đó mới là sức mạnh
nội tâm tuyệt đối, sức mạnh mãnh liệt của bậc siêu phàm, bậc đại Bồ
Tát.
Còn chúng ta, nếu có ai xúc phạm một chút, nói dèm pha một chút là
chúng ta thấy khó chịu phản ứng ngay liền. Tại sao? Tại sao chúng ta
lại lo sợ mất thể diện quá vậy? Tại sao chúng ta phản ứng tức thời ngay
vậy? - có phải trong tâm chúng ta có điều gì khuất lấp, có tì vết gì
chăng? Vì thế một khi có ai chạm đến, vô tình hay hữu ý, chúng ta cảm
thấy đau nhói, khó chịu. Cổ nhân nói: "Thuốc đắng giã tật, sự thực mích
lòng." Sự thực làm người ta đau đớn khó chịu bởi vết thương còn đó,
còn rỉ máu. Chúng ta tự biết mình có tì vết nên hễ ai chạm đến thì
chúng ta không cười nổi, chúng ta phải la toáng lên nếu không muôn sự
việc đổ bể ra. Do đó những kẻ đạo đức giả, những kẻ đội lốt thánh
nhân rất dễ lừa bịp mọi người qua lớp áo đạo đức thánh thiện. Một khi
họ đã tạo được sự tin tưởng nơi mọi người rồi thì họ nói gì, chúng ta
cũng biện hộ cho họ là đúng, là phải hết. (Người ta thực quá ngây thơ
đến độ tội nghiệp!). Và khi chúng ta đã hoàn toàn tin tưởng rồi thì dù kẻ
đó là kẻ cắp hay một tên ba xạo thì chúng ta cũng tin kẻ đó là thánh
nhân giáng phàm độ thế. Lúc đó chúng ta không e dè nghi ngại gì kẻ đó
nữa, có thể đem hết tài sản tâm tư đặt vào con người đó.
Đúng vậy, một con người đạo đức giả hiệu luôn luôn tìm cách bảo vệ
chính mình, luôn luôn tìm cách phô trường bộ mã quân tử chân chính;
lúc nào hắn ta cũng phải che dấu bộ mặt thật của hắn dưới lớp áo sơn
phết mầu đạo đức hay huyền bí. Những kẻ đó không bao giờ dám vỗ
ngực lớn tiếng nói mạnh rằng: "Ồ, người ta phê bình tôi như vậy à?
Được rồi, tôi phải tự kiểm điểm lại xem tôi đã làm những gì và có lẽ
người ta phê bình tôi đúng đấy!"
Tham Lam, Sợ Hãi, Sân Hận, Si Mê tất cả những tánh xấu đó đều
cần có bộ áo giáp che chắn bên ngoài. Trong tận cùng thâm tâm chúng
ta, chúng ta phải nhìn nhận rằng chúng ta thật hèn nhát khi phải che
dấu bộ mặt thật chúng ta sau lớp áo giáp đó.
Một đứa bé khi mới sanh ra nào biết cái gì là tốt, cái gì là xấu. Nhưng
nó được cha mẹ dạy bảo phải biết phân biệt cái này cái kia. Nó sẽ bị
phạt nếu nó làm điều gì mà người lớn cho là sai trái - nhưng với lứa tuổi
ngây thơ kia, đứa bé không tài nào hiểu được rõ ràng tốt là phải thế
nào, và xấu là như thế nào mới là xấu! Tuy nhiên vì cha mẹ nó nói là
xấu thì nó phải tin đó là xấu, nếu không nó sẽ bị phạt đánh đòn. Nó phải
nghe lời vì cha mẹ nó có quyền uy, và dưới sự thống trị uy quyền đó, sự
ngây thơ trong trắng của đứa bé bị bóp méo, vặn vò, chèn ép. Đựa bé
phải tạo cho nó một chiếc áo giáp để tự bảo vệ. Nó đâm ra sợ hãi, mất
tự nhiên khi bị sai bảo làm việc gì vì nó biết sẽ bị phạt nếu nó làm
không đúng, hoặc sẽ được thưởng nếu người lớn cho là tốt, phải. Nó
không còn tự nhiên nữa; nó không còn trong sáng ngây thơ hoàn toàn
như bản chất của nó. Người ta đã nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ vô tư
của nó một số quy luật, ước lệ, khuôn mẫu của đạo đức xã hội và nó
phải tùng phục, không được có ý kiến.
Sự Ngây Thơ Trong Sáng của đứa bé đã bị "đầu độc" - và đứa bé vác
lên vai những khuôn mẫu, những qui ước xã hội nặng nề đó, rồi từ từ
lớn lên, nó đi vào cuộc sống với tâm trạng héo hon, nghi kỵ, ưu tư, với
tâm hồn đã cằn cỗi đóng khung. Nếu nó dám bất tuân, không phục,
sống theo ý muốn của nó tức thì nó sẽ bị xã hội lên án và trừng phạt.
Có khi tội của nó không quá đỗi nặng nề để bị xử phạt nhưng nó vẫn bị
trừng phạt vì nó dám sống theo ý nó, nó dám cãi lại không phục, nó
dám sống cho nó. Thế thì liệu sự trừng phạt đó có hoán chuyển nổi con
người nó hay không? Hay chỉ tạo ra những hậu quả ngược lại?
Bạn là Cha, là Mẹ. Bạn tự cho mình có quyền trừng phạt đứa con nếu
nó dám cãi lời. Cũng vậy, Tòa Án Đạo Đức Xã hội sẽ trừng trị kẻ nào
dám đi ngược lại bánh xe khuôn mẫu xã hội. Có khi nào bạn tự gẫm lại,
nhìn kỹ lại lòng mình tại sao bạn lại trừng phạt con bạn khi nó đi ngược
lại ý bạn, nó dám sống cho nó? Bạn viện dẫn lý do là bạn dạy dỗ nó,
muốn nó trở thành người thế nọ thế kia và bổn phận nó phải vâng lời,
nhưng thực ra không phải vì Tình Thương bạn dạy con cái mình mà
chính Tự Ngã của bạn đang được vuốt ve nếu con cái bạn dễ dạy, phục
tùng. Khi nó dám cãi lại thì bạn bị xốc ngay vì Tự Ngã của bạn bị va
chạm nặng nề.
Nếu bạn xem lại những kinh sách cổ xưa như Cựu Ước, Kinh Koran
hay những kinh sách khác, bạn sẽ thấy hình ảnh Thượng Đế, Chúa
như thế nào. Trong Kinh Cựu Ước có câu: "Vâng lời là đạo đức; không
vâng lời là tội lỗi." - và những kẻ nào tội lỗi phải bị đày xuống hỏa ngục
đời đời.
Nếu sự phục tùng vâng lời bị cưỡng ép đe dọa như vậy thì ngay từ lúc
đầu đứa bé đã học được một bài học vỡ lòng là: phải tính toán cái gì
làm được, cái gì không làm dược. Nó sẽ tìm cách chinh phục bạn, ve
vuốt bạn, làm sao trở thành một đứa bé ngoan để được thưởng. Đựa
bé đã biết đóng kịch, biết nói dối, biết che dấu lọc lừa. Nó đang bị đánh
mất dần bản tánh trung thực của nó. Để tự bảo vệ, đứa bé bắt đầu
sống dưới hai bộ mặt. Chúng ta cũng như đứa bé con này, luôn núp
sau một nhãn hiệu, một tên gọi.
Nhà bác học Pascal thường nói: "Thế giới này đầy dẫy những tên điên
và những đứa trẻ con bị rơi vào tay những tên cuồng loạn ngớ ngẩn đó.
Những đứa trẻ ngây thơ thánh thiện kia đã bị họ bóp méo, vo tròn và
đầu độc. Một số chạy trốn qua cửa sau và trở thành những tên tội
phạm. Một số chạy ra cửa trước và trở thành những nhà thông thái, kỹ
sư, bác sĩ v.v Song, những nhà thông thái và những tên tội phạm có
cùng một tính chất "nổi loạn". Tên tội phạm nổi loạn chống lại những
khuôn mẫu đè nặng lên hắn nhưng hắn đi sai đường nên hắn trở thành
tội phạm. Sự nổi loạn của hắn đưa đến sự phá hủy, tiêu diệt. Còn các
nhà thông thái hay các vĩ nhân khác cũng nổi loạn nhưng nổi loạn đúng
đường, theo chiều hướng đập phá cái cũ, xây dựng cái mới; bộc lộ sự
nổi loạn của họ qua sự sáng tạo và cải thiện.
"Cha mẹ cô gái rất giận dữ, tra khảo cô về lai lịch cha đứa bé. Lúc
đầu cô ta không nói, nhưng sau cô ta tiết lộ đó là Hakuin. Cha mẹ cô ta
chạy lên chùa và mắng xối xả vào mặt thiền sư Hakuin. Sư Hakuin vẫn
điềm nhiên nhẹ nhàng nói "Thế à!" "Khi đứa bé được sanh ra, nó bị cha
mẹ cô gái đem quăng bỏ cho Hakuin. Thời gian này, Hakuin đã bị tai
tiếng dèm pha rất nhiều, nhưng Hakuin chẳng quan tâm gì cả."
Đối với bực thượng nhân, những lời tâng bốc, khen thưởng hay những
lời châm biếm thóa mạ chẳng có tác động gì đến họ cả. Họ đã vượt ra
ngoài những lý luận dung tục tầm thường của người đời. Còn chúng ta,
chúng ta quan tâm quá đến dư luận; quan tâm quá đến ý kiến của
người khác. Tại sao dư luận lại quan trọng đối với chúng ta như vậy?
Tõi sao chúng ta lại lo lắng đến ý kiến suy nghĩ của người khác? Bởi vì
chúng ta không còn tự chủ được nữa. Từ nhỏ, người lớn đã tập cho
chúng ta phải cúi đầu tùng phục nên chúng ta cũng không còn biết mình
là ai nữa. Chúng ta lệ thuộc vào người khác quá nhiều, chúng ta coi
trọng dư luận quá nhiều. Nếu họ nói chúng ta đúng, tốt thì chắc chắn
chúng ta như vậy. Nếu họ nói chúng ta sai, xấu thì quả thật chúng ta
sai, xấu, không trật chút nào. Chúng ta tự biến mình thành nô lệ cho dư
luận, nô lệ ý kiến người khác. Chúng ta thiếu can đảm để có thể dám
nói "Ý kiến của họ là ý kiến của họ. Tôi là tôi, không ăn nhập dính dáng
gì đến họ cả. Nếu tôi không tốt thì dù họ có dấu diếm, sơn phết cho tôi
thì tôi vẫn là một người xấu. Nếu tôi tốt đẹp, dù họ có nói vạn lời đi
chăng nữa thì sự thực vốn không thay đổi. Dư luận là dư luận; tôi là
tôi."
Quả thực, người nào tự biết mình rồi sẽ không bao giờ bị lay động bởi
những gì người khác nghĩ về họ.
"Như tảng đá vững chắc không lay động bởi sức gió,
Người trí không lay động bởi khinh chê yêu ghét của người thường."
(Kinh Pháp Cú).
Dư luận ý kiến người thường cũng giống như thời tiết thay đổi và không
bao giờ giống nhau. Sáng nay trời có mây đến trưa thì quang đãng. Lúc
này thì rực nắng chói chang, bây giờ thì lại mưa rồi. Thời tiết thay đổi
bất thường, dư luận người đời cũng biến đổi như chong chóng. Hãy
nhìn ông cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon, mới vừa phút trước
ông ta là đỉnh cao thiên hạ, phút sau ông ta bị hạ bệ liền, chẳng còn gì
hết. Ý kiến thay đổi, những người từng thân cận ông quay lại chống đối
ông ngay tại chỗ - cũng chính những con người đó! Họ mới vỗ tay chào
đón ta, phút sau quay lại phỉ nhổ vào ta liền.
Thói thường tình đời là vậy: nhưng người đưa ta lên ngôi cao cũng
chính là những kẻ sẽ hạ ta xuống thấp trước nhất. Qui luật ngàn đời đó
thật chua chát, mai mỉa làm sao, phải không? Những người bốc thơm
ta, khen thưởng ta nhiều nhất cũng là những kẻ sẽ phản bội, quay mũi
giáo về ta trước nhất. Vì sao? Vì chính bản thân họ vốn là loại người
phân biệt, kỳ thị. Họ luôn đứng giữa hai bến bờ kựa chọn, và với tư
tưởng sằn có như vậy, họ sẽ chọn cái nào có lợi cho họ nhiều nhất, lẽ
dĩ nhiên.
"Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế. Sư đi khắp nơi xin sữa, thức ăn và
tất cả đồ cần dùng cho đứa bé. Một năm sau, mẹ đứa bé vì ăn năn hối
hận đã vu oan cho Hakuin, thú thực với cha mẹ rằng cha ruột đứa bé là
một tên bán cá ngoài chợ."
Quả tình, sư Hakuin đã chịu nhiều cay đắng. Sư có thể bị chửi rủa,
mắng nhiếc, khinh ghét, thậm chí có thể bị liệng đá vào người; - những
người mà trước kia đã từng dâng hoa cúi đầu đảnh lễ dưới chân Sư
cầu xin ân phúc - nhưng Sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, ngày
ngày bế đứa bé đi xin sữa khắp nơi, mặc những lời nhiếc móc ngoài tai.
Thiền Sư chỉ chú tâm săn sóc đứa bé, một linh vật đáng thương đang bị
bỏ rơi. Thiền Sư ban rải tình thương vô phân biệt, tình thương của chư
Phật cho đứa bé. Thiền Sư chăm sóc đứa bé thật tử tế, trước sau như
một, không thay đổi.
Hối hận ray rứt vì thấy tăm tiếng của Thiền Sư bị tổn hại rất nhiều, vì
nghe những lời xầm xì chê bai nhiếc móc, vì thấy những cánh cửa đóng
sầm lại tàn nhẫn vào mặt Sư khi ngài bế đứa bé đi xin sữa hay thức ăn,
cô gái đã thú nhận rằng cha đứa bé là một anh bán cá ngoài chợ.
"Cha mẹ cô gái hối lỗi vội vàng chạy đến xin tạ lỗi với Thiền Sư và xin
mang đứa bé về. Thiền Sư Hakuin vẫn điềm nhiên thốt lên hai tiếng
"Thế à!"
Thật kính cẩn thán phục một bậc chân sư, một bậc đại Bồ Tát. Trong
vinh quang, hạnh phúc hay đau khổ thất bại, sống hay chết, bậc Thánh
nhân không hề rúng động, luôn luôn an trú trong tịch nhiên tự tại.
Hai tiếng vỏn vẹn "Thế à!" của Sư Hakuin bộc lộ trọn vẹn sự Tỉnh Thức
Chân Nguyên của bậc chứng đạo. Cuộc đời tặng ta cái gì, ta đón nhận
cái đó. Nó tặng ta đau khổ và chê bai nguyền rủa, hãy dang tay ôm tất
cả vào lòng. Nó tặng ta thành công hay hạnh phúc, hãy an nhiên đi
đứng thẳng lưng trong vầng hào quang đó.
Và nhớ là đừng khởi niệm phân biệt gì cả. Nếu ta khởi lên một vọng
niệm nào, tức thì ta bị mất thăng bằng ngay, và một khi đã mất thăng
bằng, thì lẽ dĩ nhiên ta sẽ bị té ngã xuống bất cứ lúc nào.
Sự thăng bằng nội tâm chính là bản nguyên thánh thiện. Khi ta giữ
được thăng bằng nội tâm, ta là bậc thánh. Khi ta không giữ được, để
cho tâm thức nghiêng ngả bên này bên kia, ta dễ vướng vào tội lỗi.
Nhưng hãy nhớ kỹ thế này, tội lỗi không chỉ thành hình khi ta hành
động, mà nó đã nẩy mầm ngay trong ta khi ta bị mất thăng bằng - có
nghĩa là quan trọng nhất đừng để bị loạn tâm, ý thức khởi lên phân biệt.
Tội lỗi thành hình ngay trong ý tưởng vừa loé lên chứ không đợi đến khi
xuất phát ra hành động.
"Tâm là chủ. Tâm tạo tác ra tất cả." Nếu Thiền Sư Hakuin nói: "Được
rồi. Bây giờ qúi vị đã biết sự thật rồi sao?" thì Hakuin cũng tầm thường
như bao kẻ phàm phu khác, vì nó có nghĩa là Sư đã chờ đợi cái giây
phút mà người ta sẽ tìm ra sự thật và sẽ tìm đến ông xin lỗi, v.v và
v.v Nó có nghĩa là Sư Hakuin đã chờ đợi cả năm trời cái giây phút
trong tương lai đó, ông đã cố gắng che đậy cái ý nghĩ là: "Một ngày nào
đó, sớm hay muộn, họ sẽ tìm ra sự thật là ta không phải là cha đứa bé,
họ sẽ ta lỗi với ta, danh dự ta sẽ được phục hồi, v.v " Nếu Hakuin
không phải là thánh nhân, ông ta chắc sẽ nghĩ và cầu nguyện các đấng
thiêng liêng phù hộ cho ông ta sớm được phục hồi danh dự. Dù Hakuin
thản nhiên bên ngoài, nhưng nội tâm ông ta đã đảo điên, mất thăng
bằng rồi vậy.
Nhưng không, Hakuin không cầu nguyện cũng chẳng chờ đợi một cái
gì. Đứa bé đang bị bỏ rơi, Sư dang rộng vòng tay ôm nó vào lòng, săn
sóc nó, che chở nó, cho nó tình thương rộng lớn; đứa bé cần cha mẹ,
Sư thương nó hơn cha mẹ ruột thương con. Suối "Tình Thương Vô
Ngã" trong Sư Hakuin tuôn chảy chan hòa lên vạn vật, lên đứa bé trong
từng giọt sữa đi xin, trong từng miếng cơm đạm bạc. Năm tháng trôi
qua, lớp áo bốn mùa thay đổi, đứa bé lớn lên trong tình thương của Sư
Hakuin - và rồi, cha mẹ đứa bé đã tìm tới, tạ lỗi và xin mang đứa bé về.
Sư Hakuin vẫn điềm nhiên tọa thị trao đứa bé lại và cũng thốt lên vỏn
vẹn hai tiếng "Thế à!"
Nếu như là một người thường khác, thì họ sẽ cảm thấy đau khổ mất
mát vô cùng, vì một khi ta chăm sóc thương yêu một đứa bé, hy sinh
cho nó từng chút một, vui trong tiếng cười của nó, buồn trong tiếng
khóc của nó thì "Ái Hữu" trong ta cũng khởi lên sự dính mắc ràng buộc.
Tình thương ta ban cho nó bao nhiêu thì sự ràng buộc chiếm hữu trong
ta cùng to lớn lên từng đó. Một sợi giây ràng buộc, một sự liên kết vô
hình thắt chặt lại người cho và kẻ nhận.
Nhưng Sư Hakuin không mừng, không giận, không buồn; mọi biến cố
trong năm qua dường như không hề tác động ảnh hưởng gì đến Sư.
Nội tâm Sư Hakuin phẳng lặng như mặt nước hồ thu, không gợn một
mảy may sóng nào. Sư Hakuin có mặt trong cuộc sống, nhưng Sư là
người ngoài dòng đời phàm tục; "hoà nhưng không đồng". Bậc Bồ Tát
hòa hợp với chúng sanh để hóa độ nhưng không cùng một bản chất,
không bị nghiệp quả chuyển lôi. Nếu chúng ta có thể đi ngược dòng
sinh tử, có thể là người đứng ngoài hí trường thiên hạ thì sớm hay
muộn gì chúng ta cũng sẽ thấu triệt được "Không Nước - Không Trăng"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét