LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Nhật Ký Đặng Thùy Trâm": http://123doc.vn/document/573869-nhat-ky-dang-thuy-tram.htm
NHẬT KÝ ĐẶNG THUỲ TRÂM
1. Bản thân và gia đình Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
TT - Liệt sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942, trong một gia đình trí
thức. Bố là chủ nhiệm khoa ngoại bệnh viện Xanhpôn, bác sĩ Đặng Ngọc Khuê, mẹ là
dược sĩ Doãn Ngọc Trâm - nguyên giảng viên Trường đại học Dược khoa Hà Nội.
Gia đình Bác sĩ Đặng Ngọc Khuê có 5 người con, 4 gái 1 trai. Đặng Thuỳ Trâm là chị
cả.
Tốt nghiệp Trường đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm xung phong vào
công tác ở chiến trường. Sau ba tháng hành quân, tháng 3-1967 chị vào đến Quảng
Ngãi và được phân công về phụ trách Bệnh viện huyện Đức Phổ, một bệnh viện dân y
nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh. Những ngày công tác ở đây Bác sĩ
Đặng Thuỳ Trâm hết lòng chăm sóc người bệnh. Chị đã để lại tình cảm sâu sắc trong
lòng thương bệnh binh và người dân huyện Đức Phổ - Quảng Ngãi. Theo lời kể của
đại tá Nguyễn Đức Thắng, thuyền trưởng con tàu không số, Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân thì: “Đức Phổ lúc bấy giờ là một trong những huyện ác liệt nhất ở
chiến trường Khu 5. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ quần nát ở đó, rồi lữ 196 Mỹ, sư dù
101 Mỹ, có thời gian cả bọn sư 25 Anh Cả Đỏ Mỹ cũng ra đó. Rồi Rồng Xanh, Bạch
Mã Nam Triều Tiên, rồi sư 2, sư 22, sư 23 ngụy, thủy quân lục chiến, quân dù ngụy
chẳng thằng nào thiếu mặt ở đấy. B52 dầm nát một vùng bán sơn địa ngang dọc chỉ
vài chục cây số Mà trên cái vùng đất ghê gớm, suốt hàng chục năm trời vẫn tồn tại,
trụ bám một cái bệnh xá huyện nhỏ nhoi, vô danh, gan lì, bất khuất. Và người chỉ huy
bệnh xá ấy là một cô gái, một cô bác sĩ trẻ người Hà Nội. Năm ấy chị chưa đến 30.
Tên chị là Trâm. Rất tiếc tôi rất có lỗi, tôi không hỏi địa chỉ gia đình chị ở Hà Nội,
phố nào, số nhà bao nhiêu. Chị chỉ huy cái bệnh xá ấy, trụ bám đến gan lì, bền bỉ suốt
mấy năm trời trên vùng đất hẹp đã bị đánh nát như băm ấy cho đến ngày 22 tháng 6
năm 1970 trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba tơ về đồng bằng, chị bị địch
phục kích và hi sinh anh dũng lúc mới chưa đầy 28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm
tuổi nghề.
Chị được kết nạp Đảng ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Hài cốt của chị được đồng bào địa phương an táng nơi chị ngã xuống và luôn hương
khói. Sau giải phóng, chị được gia đình và đồng đội đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ
Cường. Năm 1990, gia đình đã đưa chị về an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ xã Xuân
Phương, huyện Từ Liêm – Hà Nội.
Bản thân hai cuốn nhật kí này cũng có một số phận kì lạ: chúng rơi vào tay những con
người có lương tri ở bên kia chiến tuyến, được họ gìn giữ và tìm mọi cách để đưa về
cho gia đình chị. Sau hơn một phần ba thế kỉ lưu lạc, đúng vào dịp kỉ niệm ba mươi
năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30. 04. 2005), Hiện cuốn nhật
kí được lưu giữ tại Viện lưu trữ về Việt Nam ở Lubbock, Texas, Mĩ.
- Trang 1 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
2. Người nắm giữ cuốn nhật kí:
Frederic Whitehurst là một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ,
Quảng Ngãi từ năm 1969-1971. Trong chiến tranh, nhiệm vụ của Frederic là thu thập
các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình hình, truy tìm dấu tích quân
giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm vụ đó khiến Frederic có thể nhìn
cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận mắt những mất mát khủng khiếp - cả đối
với phía Việt Nam lẫn phía Mỹ.
Frederic đã chứng kiến cảnh “cả một xóm nhỏ Nhơn Phước ở miền tây Đức Phổ bị
bom giội tan hoang không còn một người sống” (thư ngày 4-6-2005). Frederic đã nhìn
thấy những em nhỏ ở Chu Lai bị thiêu cháy trong bom napalm. Frederic đã chứng
kiến viên trung úy chỉ huy trực tiếp của mình gần như mất trí vì không chịu nổi cảnh
các nhân viên y tế Mỹ “đơn giản cứ nhặt bừa bất kỳ một cánh tay, cẳng chân nào đó
lắp vào xác bạn mình cho vào quan tài gửi về Mỹ” (thư ngày 4-6-2005). Những cảnh
chứng kiến đó đã ám ảnh Frederic trong bao năm nay từ khi rời VN trở về.
Nhưng cũng từ những ngày khốc liệt đó, Fred đã nhìn thấy cuộc chiến tranh từ một
ánh sáng hoàn toàn khác biệt.
Trong một trận tập kích vào một “căn cứ của Việt cộng”, sau khi tiếng súng đã im,
đơn vị của Frederic tiến vào và nhận thấy đây là một bệnh viện nhỏ. Có rất nhiều lán
trại, nhiều phòng - rõ ràng là phòng bệnh, cả một phòng mổ dã chiến. Có vẻ mọi
người trong bệnh viện đã vội vã đi khỏi ngay trước khi quân Mỹ ập tới và không kịp
mang theo tài liệu.
Theo qui định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu của địch thu được trên chiến trường phải
chuyển lại cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Hôm đó Frederic thu nhặt được rất
nhiều tài liệu. Cùng với thông dịch viên người Việt, Frederic chọn lọc các tài liệu có
giá trị quân sự, số còn lại họ vứt vào đống lửa để thiêu hủy. Frederic đang đốt những
tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu - thông dịch viên của đơn vị - cầm
một cuốn sổ nhỏ đến cạnh anh và nói: “Frederic, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân
trong nó đã có lửa rồi”. Fred chưa hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu
và việc Hiếu có thể kính trọng cả đối phương tác động rất mạnh đến anh, Fred bỏ
cuốn sổ vào túi.
Nhiều đêm sau đó Fred và Hiếu cùng nhau đọc cuốn sổ. Đó là nhật ký của một Việt
cộng, chính là nữ bác sĩ đứng đầu cái bệnh viện nhỏ mà đơn vị Fred càn vào. Nét chữ
nghiêng nghiêng đầy nữ tính. Anh càng tò mò hơn khi Hiếu cho biết nữ bác sĩ đó còn
rất trẻ, mới 26 tuổi và từ Hà Nội vào Đức Phổ công tác chưa được hai năm.
Rồi như một định mệnh, mấy tháng sau Fred nhận được cuốn nhật ký thứ hai của nữ
bác sĩ, cũng do Nguyễn Trung Hiếu đem về. Những dòng chữ rực lửa khiến Fred vô
cùng xúc động - mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội của Nguyễn Trung Hiếu
và đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ. Những dòng đầy yêu
thương, hi vọng khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu
mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt
mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần
như luôn bám sát sau lưng.
- Trang 2 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
Sau bao đêm Fred thức cùng Nguyễn Trung Hiếu để đọc cuốn nhật ký thứ nhất, cuốn
nhật ký cùng người viết nên nó đã trở thành điều bí mật riêng của hai người lính.
Tháng mười năm ấy, Fred lại có được một thông tin về tác giả cuốn nhật ký. Một
đêm, trong khi chờ trận đánh mở màn, Fred ngồi cạnh một người lính Mỹ.
Hai người kể lại cho nhau nghe những trận đánh mà họ đã trải qua. Người lính nọ kể
cho Fred nghe một trận đánh lạ lùng mà anh ta đã tham dự. Đó là một trận đánh
không cân sức giữa 120 lính Mỹ với một người phụ nữ. Anh ta tả lại người con gái
nhỏ nhắn với chiếc túi vải bạt trên người, trong đựng vài quyển sổ nhỏ có vẽ những sơ
đồ vết thương và phác đồ điều trị. Fred sững sờ hiểu rằng anh đang được nghe kể về
những giây phút cuối cùng của tác giả cuốn nhật ký đã ám ảnh anh mấy tháng nay,
liệu đó có phải là sự thật?
Anh tâm sự: “Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị
của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp
nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có
một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để
trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp
lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà
phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ
bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác
nữa. Khi đến được nơi người kia nằm, toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ
các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và
một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở”.
Năm 1972, Fred được rời Việt Nam và trở về Mỹ. Trong hành lý của anh có những kỷ
vật nặng trĩu của chiến tranh: hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, hơn 50 tấm ảnh chụp
những người dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên
xác một phóng viên Việt cộng, chiếc đục nhỏ rơi bên xác một người thợ mộc già bị
giết hại. Cũng từ đó Việt Nam trở thành một nỗi ám ảnh trong anh.
Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình
bố mẹ liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm khiến Fred rất xúc động. Anh tâm sự: “Một người mẹ
phải được biết về những ngày tháng của con gái mình, một đất nước phải được biết về
một người anh hùng như bác sĩ Đặng. Mọi việc dường như thật thích hợp, mẹ cô cần
phải nhận được những dòng chữ của con gái mình đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm giải
phóng đất nước bà - 30-4-2005 ”.
Trong một lá thư gửi cho bà Doãn Ngọc Trâm, mẹ của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm, ngày
2-5-2005, Fred viết:
“Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho
tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo
vệ các bạn mình. Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH
HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là
- Trang 3 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi
mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị”.
Còn trong thư ngày 28-5-2005, gửi Đặng Kim Trâm – em gái thứ 2 của Đặng Thuỳ
Trâm, Robert Whitehurst (Anh trai của Fred) viết : “Tất cả những ai từng được chúng
tôi cho xem cuốn nhật ký (đã được Rob dịch sang tiếng Anh) đều xúc động trước
những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai,
nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá đối với cô cũng như đối với chúng
tôi, nhưng sự nghiệp của chị còn rất có ý nghĩa với tất cả mọi người. Những dòng chữ
của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời. Những lời bày tỏ về tình yêu của chị cũng như
những lời gọi tha thiết hướng về gia đình khiến bất cứ ai từng được đọc qua đều phải
xúc động. Con số các trận đánh và sự chăm sóc của chị đối với các thương binh làm
chúng ta trở nên xoàng xĩnh ”, “Nhưng tất cả chúng tôi đều cần học những bài học
kia - những bài học về danh dự, những bài học về tinh thần trách nhiệm và chăm sóc
người khác, bài học về tận tụy với sự nghiệp và những bài học mà chính chị là một
tấm gương về tình yêu kiên định, về cái đẹp và lòng nhân ái. Tôi biết Thùy không
định viết cho cả thế giới rộng lớn này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà những niềm
tin sâu thẳm trong chị được nói ra rất tự nhiên, và tôi đã thấy chị có đủ dũng cảm để
theo đuổi niềm tin ấy trong trận thử thách cuối cùng”.
3. Một số đoạn trích trong cuốn nhật kí
20.7.68
Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh
xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi
ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà
người không có nên một mình mình vừa phụ trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng
dạy. Vô cùng vất vả và cũng còn nhiều khó khăn trong công việc, nhưng hơn bao giờ
hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng sức lực của mình để cống hiến cho
cách mạng. Đôi mắt người thương binh hôm nào đau nhức tưởng như bỏ hôm nay
cũng đã sáng lại một phần. Cánh tay anh bộ đội sưng phù đe dọa chảy máu bây giờ
cũng đã lành lặn. Những cánh tay xương gãy rời cũng đã liền lại… Đó chính là nhờ
sức lực của mình và những người y tá đêm ngày lăn lộn trong công tác bên giường
bệnh.
28.4.69
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô
cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số
thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả
năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách
mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt
nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em
quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
- Trang 4 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm
chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế.
Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến
máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải
khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không
thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí
ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi
gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch
đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương
đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn
xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi
được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển
giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng
chí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận,
còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
Một cuộc di chuyển cực khổ vô cùng, chắc nó cũng như những lần mà bệnh xá bị
oanh tạc hoặc tập kích khác, nhưng có khổ hơn vì không biết nhờ cậy vào ai, mấy đứa
xưa nay không khiêng thương vì ốm yếu bây giờ cũng phải lãnh một cas thương, trèo
đèo lội suối đi về địa điểm mới.
Mệt, đói run chân nhưng mình và các đồng chí vẫn vô cùng bình tĩnh. Dù sao cũng đã
trưởng thành rồi qua mấy năm ác liệt.
Bốn giờ đến địa điểm.
Hai năm tròn rồi đó, cũng vào tháng tư, cũng giữa mùa trăng mình về nhận công tác
tại Đức Phổ giữa lúc bệnh xá đã tan tành sau một cuộc oanh tạc. Bây giờ lại tháng
tư nắng tháng tư ở miền Nam chói chang. Và nỗi căm thù cũng nóng bỏng như ánh
nắng mùa hè đó. Chiều nay đứng trên một đỉnh núi cao nhìn về khu vực bệnh xá cũ
thấy khói bốc lên nghi ngút mà mình rưng rưng nước mắt. Vậy là biết bao nhiêu mồ
hôi công sức, bao nhiêu của cải tài sản nhân dân dành dụm nuôi thương binh từ đó
đến nay đã cháy hết thành tro bụi!
4.6.69
Vẫn là những ngày căng thẳng, địch đổ quân sát bên nhà. Chúng la hét, chặt cây ầm ĩ
cả khu rừng. Bệnh xá im lìm căng thẳng đến tột bậc
Đang công tác ở Phổ Cường, nghe báo tin mình lặng người lo lắng, chén cơm bưng
trong tay không sao ăn tiếp được nữa. Chẳng lẽ cứ thế này mãi sao. Vừa xây dựng
được mấy bữa lại lo chạy, bao giờ mới tiếp tục được nhiệm vụ (không rõ chữ)? Lo
buồn và uất ức lạ. Có cách nào chứ không lẽ bó tay chạy dài mãi sao?
- Trang 5 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
5.6.69
Địch triển khai thêm, không thể ở đó được nữa, đêm nay đa số cán bộ và thương binh
dẫn nhau chạy xuống Phổ Cường. Tối không trông rõ mặt người nhưng có lẽ ai cũng
cảm thấy rất đầy đủ những nét đau buồn trên khuôn mặt từng cán bộ và thương binh.
Mình lo đi liên hệ giải quyết công tác đến khuya mới về, thương binh đã đi ăn cơm
xong, nằm ngổn ngang trên thềm nhà Đáng, một vài người đã ngủ, số còn lại khẽ rên
vì vết thương đau nhức. Còn lại trên đó ba cas cố định chưa có người khiêng, một số
cán bộ lãnh đạo còn trên đó, mình cần trở về. Trở về lúc này thật gay go, không hiểu
địch nằm ở đâu. Nhưng biết làm sao, yêu cầu công tác đòi hỏi mình phải trở về, dù
chết cũng phải đi.
Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Thuận ngồi lặng thinh bên mình, em không
nói một lời nào, mãi đến lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em
lo quá đi…” và mình thì không nói hết một câu: “Chị gửi balô cho em, trong đó có
quyển sổ…”, muốn nói tiếp rằng nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau
này gửi về gia đình. Nhưng mình không nói hết câu.
Trong ánh trăng mờ hai chị em đều đọc được trong đôi mắt người thân của mình một
nỗi buồn ly biệt. Em đi rồi và mọi người khác cũng đã đi hết, còn một mình trên chiếc
thềm vắng nhà chị Tính, không hiểu sao nước mắt bỗng tràn trên đôi má của mình.
Khóc ư Thùy? Đừng chứ, hãy dũng cảm kiên cường trong mọi tình huống, hãy giữ
mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó khăn nguy hiểm đang đe dọa quanh
Thùy.
25.8.69
Những ngày căng thẳng tột bậc. Đêm đêm bọn Mỹ đi quanh làng chui nằm trong lúa
để sáng sớm tinh mơ lại bò vào làng tập kích thật sớm. Sáng nay mới mờ mờ sáng
chúng đã bao quanh xóm. Mình xuống công sự với tư thế đã sẵn sàng, nằm dưới công
sự nghe chúng la hét, lùng sục phía trên, cái cảm giác ghê tởm căm thù có một sức
nặng như một trọng lượng đè lên trái tim mình. Trong trận càn sáng nay, mẹ con chị
Thu Hương bị thương. Chị Thu Hương, người y tá xã mà xưa rày mình cùng ở với
chị, mới đêm hôm cùng ngồi với mình tâm sự cho đến tận khuya. Lần đầu tiên mình
nghe người mẹ của một đứa con "tập tàng" tâm sự về nỗi đau buồn trước sự lỗi lầm
của họ. Thằng bé con chị bụ bẫm và xinh xắn như một đứa trẻ Tây âu sáng nay bị hai
mảnh cối xuyên vào ngực đúng vùng tim không hiểu có sống nổi không. Chiến tranh
là vậy đó, nó không từ trẻ nhỏ, không từ một bà già và đáng ghê tởm vô cùng là bọn
Mỹ khát máu.
14.7.69
Hôm nay là ngày sinh của ba, mình nhớ lại ngày đó giữa bom rơi đạn nổ, mới hôm
qua một tràng pháo bất ngờ đã giết chết năm người và làm bị thương hai người. Mình
cũng nằm trong làn đạn lửa của những trái pháo cực nặng ấy. Mọi người còn chưa qua
cái ngạc nhiên lo sợ, vậy mà mình vẫn như xưa nay, nhớ thương lo lắng và suy tư đè
- Trang 6 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
nặng trong lòng. Ba má và các em yêu thương ở ngoài đó làm sao thấy hết được cuộc
sống ở đây.
Cuộc sống vô cùng anh dũng, vô cùng gian nan, chết chóc hi sinh còn dễ dàng hơn ăn
một bữa cơm. Vậy mà người ta vẫn bền gan chiến đấu. Con cũng là một trong muôn
nghìn người đó, con sống, chiến đấu và nghĩ rằng mình sẽ ngã xuống vì ngày mai của
dân tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu.
Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc. Dĩ nhiên con cũng cay đắng vì
không được sống tiếp cuộc sống hòa bình hạnh phúc mà mọi người trong đó có con
đã đổ máu xương để giành lại. Nhưng có gì đâu, hàng triệu người như con đã ngã
xuống mà chưa hề được hưởng trọn lấy một ngày hạnh phúc. Cho nên có ân hận gì
đâu!
30.7.69
Mười hai giờ khuya, anh Kỷ từ cánh Nam ra báo cho mình một tin đau xót: địch đã
tập kích vào bệnh xá một cách hết sức bất ngờ. Liên đã bị chúng bắn chết trong lúc
dẫn thương binh chạy. Anh em thương binh không hiểu ai còn ai mất…
Trong ba tháng trời, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Lòng mình cháy bỏng lo âu. Liên
ơi, hôm nào tạm biệt Thùy (Trâm), Liên còn hôn Thùy và dặn đi dặn lại rằng Thùy
phải cảnh giác, nhưng hôm nay người ngã xuống trước lại là Liên, cô gái xinh xắn và
xuất sắc trong công tác, cô gái cưng của bệnh xá không còn nữa. Liên ơi, còn sống
ngày nào Thùy thề sẽ trả thù cho Liên, cho Lý và cho cả triệu người đã ngã xuống
trong cuộc chiến đấu sinh tử này.
19.5.70
Địch càn lên súng nổ rần rần con vẫn cười, bình tĩnh ra công sự. Địch tập kích vào
căn cứ, vừa chạy địch có đêm phải ngủ rừng con cũng vẫn cười, nụ cười vẫn nở ngay
cả khi tàu rọ và HU-1A quăng rocket xuống ngay trên đầu mình… Vậy mà khi nghĩ
đến gia đình, đến những người thân yêu trên cả hai miền, lòng con xao xuyến xót xa
và cũng có những lúc những giọt nước mắt thấm mặn yêu thương chảy tràn trên đôi
mắt của con.
10.6.70
Chiều nay sao buồn da diết. Phải chăng vì đây là thời gian cuối cùng anh có thể đến
thăm em trước lúc lên đường, nhưng thời gian ấy đã trôi đi và như vậy là không gặp
anh trước khi chia tay. Chia tay - những cuộc chia tay trên mảnh đất khói lửa này ai
mà biết được ngày gặp lại như thế nào, có hay là không có. Lẽ nào anh lại làm thinh
ra đi sao, anh trai thân quý?
Nhưng nỗi buồn còn vi lá thư của mẹ, lá thư ngắn ngủi, cố giấu nỗi đau buồn và
thương nhớ nhưng nỗi đau buồn ấy vẫn toát lên dù chỉ trong một vài chữ mẹ chưa cân
nhắc kỹ trước khi viết. Mẹ yêu ơi, con hiểu lòng mẹ héo hon, đau xót khi con của mẹ
còn phải lăn mình trong lửa đạn, những lá thư của con, của các em gởi đến mẹ chỉ nói
lên một phần vạn sự gian khổ ác liệt vậy mà mẹ đã lo lắng như vậy. Nếu như mẹ biết
- Trang 7 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
được con và các em đã trải qua những ngày ác liệt như thế này thì mẹ sẽ nói sao? Mẹ
yêu ơi, nếu như con của mẹ có phải ngã xuống vì ngày mai thắng lợi thì mẹ hãy khóc
ít thôi mà hãy tự hào vì các con đã sống xứng đáng. Đời người ai cũng chết một lần.
Dĩ nhiên lòng con bao giờ cũng ao ước được trở về với mẹ, với ba với miền Bắc ngàn
vạn yêu thương.
12.6.70
Có cái gì mong đợi tha thiết trong lòng. Mong gì? Mong những người về bổ sung cho
bệnh xá để cỏ thề đảm đương nhiệm vụ nặng nề trong những ngày tới. Mong cuối
tháng em về, mong thư những người thân yêu… Và niềm mong ước lớn lao nhất là
Hoà bình, Độc lập để mình lại trở về sống trọn trong lòng mẹ. Sao mấy bữa rày trong
tâm tư mình nặng trĩu nhớ thương Đ êm đêm mình mơ thấy miền Bắc Ngày ngày
mình ước ao mong đợi ôi Th. ơi! Đường đi còn lắm gian lao, Th. còn phải bước tiếp
chặng đường gian khổ đó Hãy kiên trì nhẫn nại hơn nữa nghe Th
14.6.70
Chủ nhật, trời sau một cơn mưa quang đãng và dịu mát, cây lá xanh rờn. Trong nhà lọ
hoa trên bàn vừa thay buổi sáng, những bông hoa mặt trời xinh đẹp ngả bóng xuống
màu gỗ bóng loáng trên chiếc radio đặt giữa nhà. Chiếc dĩa hát đang quay một bản
nhạc quen thuộc - Dòng Danub xanll Có tiếng cười nói bạn bè đến chơi ôi, đó chỉ
là giấc mơ - Một giấc mơ không phải là trong giấc ngủ!
Sáng nay cũng là chủ nhật, trời cũng sau một cơn mưa. Không gian êm ả, nếu không
có tiếng máy bay thô bạo xé nát bầu trời thì không có gì khác đâu ngoài tiếng suối rì
rào chảy! Nơi mình ở lại vừa qua một trận bom - chiều hôm kia hai chiếc Moran hai
thân quần mãi rồi phóng rocket xuống… Nghe rocket nổ mọi người vội lật đật xuống
ham, nghe bom rít trên đầu mình tưởng chúng thả ở quả đồi trước mặt, nhưng sau bốn
loạt bom chúng đi mọi người mới hốt hoảng nhận ra rằng bom nổ cách mình chỉ
không đầy hai mươi mét. cả một vùng cây trơ trọi, nylon che trên nhà rách tan nát và
bay tơi tả từng mảnh. Từng cây cột bị mảnh bom tiện xơ xác. Đất đá rơi đầy hầm!
May mắn là không ai bị thương. Sau trận bom, mọi người nhận định điểm này đã bị
lộ, vội lập tức triền khai tìm điểm khác làm nhà để chuyển đi.
Số lực lượng mạnh khoẻ đã đi hết, để lại năm thương binh nặng cố định và bốn chị
em nữ. Chiều hôm qua trời mưa như trút nước, bọn mình đem nylon trải kín mặt nền
nhà vậy mà nước vẫn đổ xuống giàn giụa. Trong nhà lênh láng nước, đứa nào đứa nấy
ướt sũng, luôn tay hứng mưa dột và đổ nước ra ngoài. Mấy thương binh ngồi co ro
ướt lướt thướt.
Nhìn những cảnh đó mình cười mà nước mắt chực trào ra trên mi. Tiếng chị Lãnh hỏi
mình: "Có ai biết cảnh này cho không".
Ai biết? Chắc nhiều người biết nhưng cũng không ai biết cho tường tận. Và mình,
mình cũng không biết hết còn bao nhiêu cảnh khổ hơn nữa trong cuộc kháng chiến
quyết liệt này. Sinh tử không thể nào mà ghi hết, mà có lẽ cũng không nên nói hết để
làm gì. Những lá thư mình viết cũng không bao giờ kể hết với những người thân yêu
- Trang 8 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
về tất cả nỗi khổ mình đã trải qua. Kể để làm gì cho người thân yêu của mình thêm lo
lắng. Thuận em mình đã trải qua bao nhiêu lần cái chết kề bên, bao nhiêu câu chuyện
đau buồn đã hằn lên khuôn mặt của em, những nếp nhăn làm em già trước tuổi nhưng
bao giờ viết thư cho mình lá thư cũng tràn ngập lo âu cho mình và nhắc nhở mình
cảnh giác hơn. "Còn em vẫn khỏe thôi.". Mình đã học tập em tinh thần đó.
Có cái gì đè nặng trên con tim. Cái gì? Nỗi lo âu cho tình hình bệnh xá. Sự căng thẳng
về tình hình địch. Nếu địch đổ xuống đây bỏ thương binh mà chạy sao? Nếu địch giội
bom có cách nào hơn là ngồi trong hầm chờ sự may rủi? Sự nhớ thương mong ước
được an ủi trong tình thương của những người thân yêu Tất cả, tất cả đè nặng trong
trái tim mình và tâm tư mình đầy ắp như mặt sông những ngày nước lũ.
Hôm qua trong cảnh hoang tàn sau trận bom, mọi người gồng gánh ra đi, anh Đạt đăm
đăm nhìn mình nửa đùa nửa thật hỏi: "Có ai biết cảnh này không nhỉ? Nếu hoà bình
lập lại ắt hẳn phải chiếu cố nhiều đến những người đã qua cảnh này". Mình cảm thấy
đau nhói trong lòng, mình làm không phải để được chiếu cố, nhưng có ai hiểu nỗi ước
ao cháy bỏng của mình không? Mình trả lời anh Đạt:
- Ồ em thì chả cần chiếu cố đâu. Ước mong của em chỉ là hoà bình trở lại để em được
về với má em. Có thế thôi!
Quả thực mình đã không nghĩ gì đến hạnh phúc của tuổi trẻ không hề mong ước được
sống trong một tình yêu sôi nổi mà lúc này chỉ có tình gia đình, chỉ có ước mong sum
họp với gia đình. Có thế thôi chứ không mong hơn ngoài việc phục vụ cho Đảng, cho
giai cấp nữa.
16.6.70
Đọc nhưng dòng nhật ký của Bổi, một cậu học sinh trẻ quê ở Phú Xuyên, Hà Tây
mình cảm thấy xao xuyến trong lòng. Tâm sự của Bối cũng là tâm sự của mình.
Chúng mình đang sống trong những ngày căng thẳng tột bậc. Bệnh xá đã bị đánh phá,
địch tiếp tục uy hiếp dữ dội bằng đủ loại máy bay. Nghe tiếng máy bay quần trên đầu
mình thấy thần kinh căng thẳng như một sợi dây đàn lên hết cỡ. Không có cách nào
giải quyết khác hơn là mình vẫn phải ở lại cùng anh em thương binh. Buồn cười thay
đồng chí chính trị viên của bệnh xá từ chối không dám ở lại cùng mình trong tình
huống này. Vậy đó, lửa thử vàng gian nan thử sức Mình cũng đành chịu đựng trong
hoàn cảnh này chớ biết nói sao hơn?
Những ngày này nhớ miền Bắc tha thiết, nhìn trời râm mát mình nhớ những buổi
chiều mình cùng các bạn ung dung trên chiếc xe dạo qua vườn ươm cây, những luống
hoa pancess rực rỡ như những đàn bướm đậu trên mặt đất, những đoá hồng ngào ngạt
hương thom Mình nhớ cả khóm liễu tường trong vườn thực vật - bông hoa Phương
thường hái về cắm trong nhà. ôi miền Bắc xa xôi, bao giờ ta trở lại?
17.6.70
Ngày nay Moran không quần, không khí im lặng, thỉnh thoảng từng đứt những chiếc
HU-1A quần sát trên đồi, chắc chắn lả có địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em
gái ở nhà cùng năm thương binh cổ định. Nếu địch sục vào đây chắc không có cách
- Trang 9 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
nào khác hơn là bỏ chạy! Vậy được sao? Mọi người đều đã xác định là không có cách
nào hơn trong tình huống đó nhưng nữ nào? Niên, một cậu bé thương binh đã nói
với bọn mình giọng rất đỗi chân thành: "Các chị cứ bình tinh, giặc đến cứ chạy đi,
bọn em ở đây một mất một còn với chúng!".
Niên năm nay mười chín tuổi, em công tác ở đội an ninh thị trấn. Đó là một cậu bé rất
xinh trai, khuôn mặt đầy đặn sống mũi cao và đôi mắt to dưới hàng mi rậm. Những
lúc đau đớn Niên nhìn mình với đôi mắt long lanh nước mắt. Niên bị thương trong lúc
đi công tác, vết thương làm chảy máu thứ phát ở động mạch chằng trước. Mình mới
mở buộc động mạch được ba bốn bữa thì bom giội xuống bệnh xá, Niên bị cây gỗ
trong hầm đè gãy chân đúng ngay chỗ vết mổ. Mười hai ngày qua mình lo lắng chân
em sẽ chảy máu lại, nếu vậy sê khó bảo tồn nổi. Hôm nay sự nguy hiểm ấy qua rồi,
nhưng nếu địch ập đến em sẽ chết ư Niên? Lòng mình đau như dao cắt, không biết
nói thế nào và làm cách nào để bảo vệ những người thương binh bọn mình đã tận tình
phục vụ với bao nhiêu gian khổ trong bao nhiêu ngày qua.
18.6.70
Chiều đã xuống, ánh nắng đã mờ tắt sau dãy núi xa. Những chiếc phản lực, Moran đã
thôi gào rú. Rừng chiều im lặng một cách dễ sợ. Không một tiếng chim kêu, không
một tiếng người nói, chỉ có tiếng suối róc rách chảy và chiếc transitor đang phát một
bản nhạc. Mình không nghe nhan đề nhưng chỉ biết khúc nhạc êm dịu, mượt mà như
cánh đồng lúa xanh êm ả trong sương chiều. Bất giác mình quên đi tất cả, quên cái
không khí nặng nề đang đè nặng trên mình suốt mấy ngày nay.
Từ sáng đến giờ ngoài lúc ăn cơm, ba chị em mỗi đứa ngồi một góc, mắt đăm đăm
theo dõi phát hiện địch. Mình không rời vị trí quan sát một phút nào nhưng đầu óc
mình lại là những cảnh của ngày đoàn tụ sum họp. Mình sẽ trở về chắt chiu vun xới
cho tổ ấm gia đình, mình sẽ biết quý từng phút, từng giây hoà bình ấy bới vì có sống ở
đây mới hiểu hết giá trị của cuộc sống. Ôi! Cuộc sống đổi bằng máu xương, tuổi trẻ
của bao nhiêu người. Biết bao nhiêu cuộc đời đã chấm dứt để cho cuộc đời khác được
tươi xanh. Miền Bắc ơi có thấu hết lòng miền Nam không nhi?
20.6.70
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần mười ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai.
Mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đề đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà
mọi người nghi là điệp đã chỉ điểm này. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây,
từng phút. Sáu giờ sáng mong cho đến trưa, trưa mong đến chiều Một ngày, hai
ngày rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy
trong đau óc mình và những người ở lại. Vì sao? Lý do vì sao mà không ai trở lại? Có
khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cảnh này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười,
nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh, chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nữa là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh
đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo. Đường đi trăm nghìn nguy
- Trang 10 -
Trần Quốc Hoàn Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
hiểm. Còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người, nếu có tình huống gì xảy ra thì sao?
Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay làm sao
cho kịp. Chăng nylon trước thì sợ máy bay? Cuối cùng cũng phải hai người đi. Chị
Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai chị quản xắn tròn trên về, lặn lội qua dòng
suối nước chảy rần ràn, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Bất giặc mình đọc khẽ câu thơ:
Bây giờ trời biển mênh mông
Bác ơi có thấu tấm lòng trẻ thơ
Không, mình không còn thơ dại nữa, mình đã lớn, đã dày dạn trong gian khổ nhưng
lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của một
người mẹ mà thực ra là một bàn tay của một người thân hay tệ hơn chỉ là một người
quen cũng được. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền
cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt.
Đây là những dòng nhật kí cuối cùng của cuộc đời chị. Trong hoàn cảnh bị địch đánh
phá ác liệt, Thùy Trâm vẫn lạc quan, tin tưởng, hết lòng phục vụ thương bệnh binh.
***
Theo lời anh Nguyễn Văn Thông, nguyên y tá, nhân viên của chị kể: Lúc đã giành lại
được các địa bàn bí mật sau thất bại tết Mậu Thân, địch huy động lực lương khổng lồ
mở chiến dịch làm cỏ tỉnh Quảng Ngãi. Dưới đồng bằng, lính thuỷ đánh bộ từ biển đổ
vào cùng các cánh quân theo quốc lộ 2 quét từng ngôi nhà. Trên rừng, lính dù tiếp đất
từ hàng trăm trực thăng, giăng thành hàng cắt từng quả đồi, ô trống. Tình hình chưa
bao giờ căng thẳng, ác liệt đến thế. Bệnh xá bị trúng pháo. Chị Trâm chỉ huy mọi
người sơ tán thương binh xuống các hầm ngầm. Đó là ngày 19/6. Ba hôm sau chị dẫn
nhóm cán bộ 4 người xuống núi tìm địa điểm mới ở khu rừng Ba Khâm, huyện Ba Tơ
để di chuyển cơ quan. Và tai hoạ đã xảy ra. Cả tốp sa vào ổ phục kích. Cuộc chiến
không cân sức kết thúc lúc 4h 15 phút. Chỉ có một người sống sót. Chị Trâm đã anh
dũng hi sinh khi tuổi thanh xuân còn rực lửa.
Ông Đỗ Tiến Của, nguyên Bí thư Huyện ủy Đức Phổ nghẹn ngào nói về Liệt sĩ Đặng
Thùy Trâm: “Tuy môi trường công tác mới lạ, gay go, ác liệt và phức tạp, thời kì mà
Mĩ ngụy đánh phá dữ dội nhất, dùng mọi phương tiện hòng hủy diệt phong trào,
nhưng đồng chí Trâm đã vượt qua tất cả. Đồng chí đã được đồng nghiệp khâm phục,
nhân dân thương mến”.
***
Cũng theo lời kể của đại tá Nguyễn Đức Thắng, thuyền trưởng con tàu không số, Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: “Tôi muốn nói với các anh về cái bệnh xá huyện
Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Các anh hiểu thế nào là một cái bệnh xá huyện trong
chiến tranh, ở miền Nam hồi bấy giờ không? Riêng tôi, thật ra đến lúc đó, có dịp trôi
dạt vô đó, tôi mới hiểu. Thì ra giữa chiến tranh, một vùng đất quá ác liệt, thì một đơn
vị bộ đội, chủ lực hay địa phương, thậm chí có khi cả du kích nữa, rồi các cơ quan chỉ
huy, chỉ đạo có thể tạm thời lánh đi đâu đó, thời gian ngắn hoặc dài. Nhưng một cái
bệnh xá huyện thì không thể lánh đi đâu được cả, đơn giản chỉ vì nó là một cái bệnh
- Trang 11 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét