LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam": http://123doc.vn/document/569895-toi-vi-pham-cac-quy-dinh-ve-khai-thac-va-bao-ve-rung-trong-luat-hinh-su-viet-nam.htm
vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam
Vũ Thị Huyền
Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. Trương Quang Vinh
Năm bảo vệ: 2010
Abstract. Nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở đó đưa ra khái
niệm về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Phân tích các khía
cạnh pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Nghiên cứu
thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực tiễn giải
quyết các vụ án này tại Việt Nam. Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những
ảnh hưởng tiêu cực của những hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng như đối với môi trường sinh thái.
Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng, đồng thời xây dựng mô hình lý luận một cách hiệu quả, có tính khả thi
cao về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Keywords. Luật hình sự; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam; Rừng
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
` Việt Nam là nước có diện tích rừng và đất rừng khá lớn, chiếm khoảng 30% diện tích
lãnh thổ. Là nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế lớn nên rừng đã trở thành đối tượng, mục tiêu
khai thác của nhiều cá nhân, tổ chức. Do vậy, khai thác rừng một cách bền vững cũng như
bảo vệ rừng ở Việt Nam trở thành một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Tình hình tội phạm về kinh tế nói chung, đặc biệt là tình hình tội phạm vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng có chiều hướng gia tăng. Tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã gây ra cho xã hội những hậu quả nghiêm trọng
đồng thời trở thành một nguy cơ, thách thức to lớn, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương phát triển kinh tế mà Đảng, Nhà nước đã đề ra và đe doạ nghiêm trọng đến sự cân
bằng môi trường sinh thái.
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có
hiệu lực từ ngày 01/7/2000 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự năm
1985. Bên cạnh quy định của luật hình sự đối với hành vi vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng còn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc ngành và lĩnh vực khác
cùng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Việc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một mặt góp phần nghiêm trị những hành
vi vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng; mặt khác cũng thấy được
giới hạn cần trừng trị bằng pháp luật hình sự đối với hành vi vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
được mô hình lý luận của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong khoa
học luật hình sự, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của Đảng, Nhà nước và nhân
dân đối với loại tội này.
Chính vì lý do nêu trên, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam, làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Số lượng các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến tội phạm này không
nhiều. Có thể kể đến như luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Văn Hà: Trách nhiệm hình
sự đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và đấu tranh phòng ngừa tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2002; bài viết của
tác giả Đỗ Đức Hồng Hà: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng- những tồn
tại và vướng mắc cần tháo gỡ, tạp chí Toà án nhân dân số 14 năm 2005. Và gần đây nhất là
luận án tiến sỹ luật học của tác giả Phạm Đình Xinh: Hoạt động điều tra tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý và
chức vụ.
Các công trình này hoặc là chỉ nghiên cứu một phần về trách nhiệm hình sự của loại
tội này cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm này trên một phạm vi hẹp; hoặc là nghiên
cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động điều tra tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của cơ quan cảnh sát điều tra; hoặc là chỉ
dừng lại ở các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở đó đưa ra khái niệm về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
- Nghiên cứu thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực
tiễn giải quyết các vụ án này tại Việt Nam.
- Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của những hành
vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam
cũng như đối với môi trường sinh thái.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng, đồng thời xây dựng mô hình lý luận một cách hiệu quả, có tính khả thi cao về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng như các vấn đề có liên quan đến tội này tại Việt
Nam từ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay.
Về không gian: Nghiên cứu tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng tại
Việt Nam, trong sự so sánh, liên hệ với loại tội này ở một số nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết những nhiệm
vụ mà đề tài đặt ra như phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
lịch sử…
5. Điểm mới về mặt khoa học
- Làm rõ về mặt lý luận cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng đồng thời xây dựng mô hình lý luận về loại tội này trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn được trình bày theo kết cấu sau đây: Phần
mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 1999
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Nhìn chung, thời kỳ này chúng ta chỉ có một số ít các văn bản pháp luật quy định về
các hành vi vi phạm khai thác và bảo vệ rừng như: Sắc lệnh số 142/SL ngày 21/12/1949 quy
định việc lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng; Sắc lệnh số 26/SL ngày
25/02/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu
và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở
việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước.
Thời kỳ từ năm 1954 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 xuất hiện một số văn
bản pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có giá
trị pháp lý cao như: Pháp lệnh quy định về quản lý Nhà nước đối với công tác phòng cháy và
chữa cháy (ngày 27/9/1961); Nghị định số 221-CP ngày 29/12/1961 của Hội đồng Chính phủ
về việc phòng cháy và chữa cháy rừng; Nghị định số 39-CP ngày 05/4/1963 của Hội đồng
Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (ngày 21/10/1970); Pháp lệnh ngày 06/9/1972 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định việc bảo vệ rừng; Nghị quyết số 155-CP ngày 03/10/1973 của
Hội đồng Chính phủ về việc thi hành pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng…. Đặc biệt, trong
thời kỳ này vấn đề bảo vệ rừng đã được đề cập trong đạo luật cao nhất của Nhà nước ta- Hiến
pháp năm 1980.
Bên cạnh những văn bản kể trên, cùng thời gian này Chính phủ và các Bộ, Ngành đã
ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan về quản lý và bảo vệ rừng như: Quyết định số
41- TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định các khu rừng cấm; Nghị định số 221/CP
của Thủ tướng Chính phủ về phòng cháy và chữa cháy rừng; Thông tư số 24-TT/75 ngày
20/9/1975 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời về việc bảo vệ và khắc phục hồi
rừng v v…
Như vậy, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, việc xử lý tội phạm về bảo vệ
rừng vẫn được thực hiện theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh
quy định việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Những quy định
nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật thời kỳ này đã bước đầu đặt cơ sở quan trọng cho
pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực từ
ngày 01/11/1986 là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta. Trong bộ luật này lần đầu tiên
tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng đã được quy định tại một điều độc lập:
Điều 181 chương VII- Các tội phạm về kinh tế- Bộ luật hình sự năm 1985.
Trong một thời gian dài, các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội Vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng hầu như không có sự sửa đổi, bổ sung. Điều này được
minh chứng qua 04 lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985 vào các năm 1989, 1991,
1992 và 1997. Chỉ duy nhất vào lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1989 tội vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng có sự sửa đổi về hình phạt bổ sung. Theo đó người
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể bị phạt tiền đến
50.000.000đ (nâng mức phạt tiền lên tối đa là 50.000.000đ).
1.2. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
1.2.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy định tại Điều
175 của Bộ luật hình sự năm 1999. Điều luật quy định như sau:
Điều 175. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn
vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù tù ba tháng đến ba năm:
a) Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà
nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 của Bộ
luật này;
b) Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt
tù từ hai năm đến mười năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng
[2, tr.125].
Trên cơ sở Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 có thể rút ra khái niệm vệ tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng như sau: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm những quy định của Nhà nước về
khai thác và bảo vệ rừng nói riêng cũng như xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực quản lý kinh tế nói chung.
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
* Khách thể của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng chính là
các quan hệ xã hội thể hiện chế độ quản lý của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Thông
qua việc bảo vệ các quan hệ xã hội này Nhà nước bảo vệ được trật tự quản lý kinh tế (khách
thể loại).
Luật hình sự của một số nước trên thế giới quan niệm khách thể của tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng có sự khác nhau nhất định tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Về đối tượng tác động của tội phạm: là rừng và các sản phẩm của rừng như gỗ và các
lâm thổ sản khác.
* Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 bao gồm 04 loại hành vi:
Thứ nhất, hành vi khai thác trái phép cây rừng. Hành vi khai thác trái phép cây rừng
thường được biểu hiện cụ thể dưới các dạng như:
- Tổ chức, cá nhân khai thác trái phép cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép trong trường hợp pháp
luật quy định việc khai thác đó chỉ được thực hiện khi đã được cấp giấy phép và giấy phép
còn trong thời hạn. Dạng hành vi này bao gồm cả trường hợp khai thác cây rừng ngoài khu
vực cho phép.
- Tổ chức, cá nhân khai thác cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng
khi đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép và giấy phép còn trong thời hạn
nhưng đã thực hiện không đúng quy định ghi trong giấy phép.
Thứ hai, hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ
rừng: được hiểu là những hành vi không được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự mà được
quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan và những hành vi mà nhà làm luật dự
liệu sẽ xuất hiện trong tương lai (tất nhiên những hành vi này phải là những hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng).
Thứ ba, hành vi vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép: Là hành vi vận chuyển, buôn bán
gỗ không đúng với quy định của Nhà nước.
Dấu hiệu thứ hai, người có hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
Đây là trường hợp trước đó người có hành vi vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng đã bị xử phạt hành chính (cảnh cáo, phạt tiền…) về một trong các hành vi quy
định tại khoản 1 Điều 175 hoặc khoản 1 Điều 189 BLHS và chưa hết thời hạn được coi là
chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
nay lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 175.
Đã bị kết án về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, chưa được xoá
án tích mà còn vi phạm
Nghĩa là tính từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án
chưa quá các thời hạn theo Điều 64 BLHS năm 1999.
Gây hậu quả nghiêm trọng
Mức độ gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS được
hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT- BNN&PTNT- BTP- BCA- VKSNDTC-
TANDTC.
Hậu quả của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là những thiệt hại
về mặt vật chất như số lượng gỗ bị khai thác trái phép, diện tích rừng bị phá huỷ, lấn chiếm…
ngoài ra, loại tội phạm này còn gây ra những hậu quả khác như xâm phạm tới trật tự quản lý
kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng; làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cân bằng sinh thái, là nguyên nhân gây ra bão lụt, hạn hán, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế, xã hội và đời sống con người.
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng cho thấy, tội phạm này có cấu thành vật chất. Theo đó hậu quả của tội phạm là dấu
hiệu, là điều kiện bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Giữa hành vi
khách quan với hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng luôn
luôn có mối quan hệ nhân quả với nhau.
* Chủ thể của tội phạm
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng không quy định chủ thể đặc
biệt. Nghĩa là bất kỳ ai, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Ở tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng thì nhân thân của người phạm
tội có ý nghĩa đối với việc định tội. Theo đó, cấu thành tội phạm cơ bản của tội này đòi hỏi
người phạm tội phải có dấu hiệu phản ánh đặc điểm xấu về nhân thân là “đã bị xử phạt hành
chính” hoặc là “đã bị kết án”.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể là lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý. Thông thường đối với những người thực hiện hành vi khai thác trái phép
cây rừng, vận chuyển gỗ trái phép, buôn bán gỗ trái phép thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố
ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
Động cơ, mục đích phạm tội ở mỗi tội phạm cụ thể là khác nhau, có thể là vụ lợi, có
thể là nể nang trong quan hệ bạn bè, gia đình hay động cơ khác nhưng động cơ vụ lợi là chủ
yếu.
* Hình phạt
Điều 175 có hai khung cơ bản. Khung hình phạt chính: Người phạm tội có thể bị áp
dụng một trong các hình phạt như phạt tiền, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
có thời hạn. Kèm theo hình phạt chính có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
1.2.3. Khung pháp lý về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Khung pháp lý về đấu tranh phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ hai, các văn bản pháp luật khác.
Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT- BNN&PTNT- BTP- BCA- VKSNDTC-
TANDTC ngày 08 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội
phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004; Nghị định số 23/2006/NĐ- CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Nghị định số 159/2007/NĐ- CP ngày 30/10/2007
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản; Luật môi trường năm 2005.
Các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, về vận chuyển, buôn bán gỗ
thường là của Chính phủ hoặc của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thứ ba, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Việt Nam đã ký kết các Công ước quốc tế liên quan đến phòng chống tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng như: Công ước Palecmo về phòng chống tội phạm
xuyên quốc gia, Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999, Công ước khung
về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 1992.
1.2.4. Phân biệt tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với một số tội
phạm khác
Thứ nhất, địa điểm phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội buôn
lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
Thứ hai, cơ sở pháp lý quan trọng nhất để phân biệt tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng với tội hủy hoại rừng là căn cứ vào các hành vi khách quan của người
phạm tội.
Thứ ba, đối tượng tác động của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm của tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO
VỆ RỪNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM
2.1. Tình hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
nền kinh tế thị trƣờng Việt Nam
2.1.1.Thực trạng của tình hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
Theo số liệu thống kê của ngành Toà án, từ năm 2005 đến năm 2009, Toà án nhân dân
các cấp đã xét xử sơ thẩm 681 vụ án vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với số
bị cáo là 763. (Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
Năm Số vụ Số bị cáo
2005 133 140
2006 71 75
2007 161 186
2008 140 160
2009 176 202
Tổng cộng 681 763
Nguồn: TAND tối cao [32]
Để thấy được mức độ nghiêm trọng của tình hình tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng chúng ta cần so sánh nó với thực trạng tình hình tội phạm nói chung
trong cùng thời gian năm năm qua, từ năm 2005 đến năm 2009 (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Số vụ, số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng so sánh với tội phạm nói chung của từng năm, từ năm 2005 đến năm 2009.
Nhóm tội
Năm
Tội VPCQĐVKTVBVR
(1)
Số vụ/ Số bị cáo
Tội phạm nói
chung (2)
Số vụ/ Số bị cáo
Tỷ lệ %
(1) so với (2)
2005 133/140 55.237/91.224 0,24%/0,15%
2006 71/75 62.116/103.733 0,11%/0,07%
2007 161/186 62.793/107.518 0,25%/0,17%
2008 140/160 63.040/109.338 0,22%/0,14%
2009 176/202 65.462/114.344 0,26%/0,17%
Tổng cộng 681/763 308.648/526.157 0,22%/0,14%
Nguồn: TAND tối cao [32]
Từ bảng thống kê trên chúng ta có các biểu đồ so sánh số lượng tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng và số lượng tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm
2005 đến năm 2009.
Biểu đồ 2.1. Số lƣợng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và số
lƣợng tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
2005 2006 2007 2008 2009
VPQDVKTVB
VR
TP chung
Nguồn: TAND tối cao [32]
Biều đồ 2.2. Số lƣợng bị cáo của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng và số bị cáo của các tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm 2005 đến năm
2009
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
2005 2006 2007 2008 2009
VPQDVKTVB
VR
TP chung
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
Nếu so sánh với tổng số các vụ phạm tội nói chung trong 05 năm từ năm 2005 đến
năm 2009 thì số vụ phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng chiếm tỷ lệ
0,22%. Tỷ lệ này là không lớn. Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số thống kê qua công tác xét
xử. Bên cạnh đó còn có số tội phạm ẩn không bị phát hiện vì những lý do khác nhau để thấy
rõ được điều này chúng tôi lập bảng 2.3:
Bảng 2.3. Số vụ vi phạm về khai thác, mua bán, vận chuyển và chế biến lâm sản
so sánh với số vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng nói chung cũng nhƣ số vụ/ số
bị can bị xử lý về hình sự trong ba năm, từ năm 2007 đến năm 2009
Năm
Số vụ vi phạm Luật
bảo vệ và phát triển
rừng
Số vụ vi phạm về khai
thác, mua bán, vận chuyển
và chế biến lâm sản
Số vụ/ Số bị
can bị xử lý về
hình sự
2007 39.693 25.561 328/332
2008 42.429 26.646 280/221
2009 40.841 27.757 323/207
Tổng cộng 122.963 79.964 931/760
Nguồn: www.kiemlam.org.vn
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm
Trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2009, số vụ phạm tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng bị xét xử sơ thẩm hàng năm có xu hướng tăng so với năm
đầu và tương đối ổn định ở mức cao. Nếu lấy mức độ gia tăng hàng năm về số vụ và số bị cáo
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của năm 2005 là 100% thì mức
độ gia tăng từng năm của các năm tiếp theo như sau:
Bảng 2.4. Mức độ gia tăng hàng năm của số vụ và số bị cáo phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Năm Số vụ MĐGTHN % Số bị cáo
MĐGTHN %
2005 133 100,00 140 100,00
2006 71 53,38 75 53,57
2007 161 121,05 186 132,85
2008 140 105,26 160 114,28
2009 176 132,33 202 144,28
Nguồn: TANDTC [32]
Ghi chú: MĐGTHN: Mức độ gia tăng hàng năm.
Với số liệu thống kê trên có thể tính tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số vụ và
số bị cáo như sau:
Tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số vụ phạm tội Vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng
4
53,38x121,05x105,26x132,33 = 97,40%
Tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số bị cáo phạm tội Vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
4
53,57x132,85x114,28x144,28 = 104,07%
Từ bảng 2.4 chúng ta có đồ thị thể hiện diễn biến tình hình tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng (theo số vụ và số bị cáo trong năm năm từ năm 2005 đến
năm 2009) như sau:
Đồ thị 2.1. Diễn biến tình hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
50
100
150
200
250
300
350
400
2005 2006 2007 2008 2009
Số bị cáo
Số vụ
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
2.1.3. Tính chất của tình hình tội phạm
* Về hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng:
Tỷ lệ số vụ án khai thác rừng trái phép cao hơn nhiều so với tỷ lệ số vụ án vận
chuyển, buôn bán gỗ trái phép.
* Về thủ đoạn của người phạm tội: Dùng tiền hoặc những lợi ích vật chất khác hối lộ
cho các cán bộ kiểm lâm thoái hóa, biến chất để tiếp tay, tổ chức cho bọn lâm tặc khai thác
rừng trái phép; lợi dụng việc được phép khai thác, tận thu, tận dụng gỗ bọn tội phạm đã tổ
chức khai thác trái phép ngoài khu vực tận thu, tận dụng gỗ; lợi dụng việc ký kết hợp đồng
mua bán gỗ giữa cơ quan Nhà nước với các công ty là hợp pháp để bán vượt khối lượng gỗ
cho phép.
* Về địa điểm thực hiện tội phạm: Qua báo cáo của ngành kiểm lâm cho thấy hoạt
động khai thác, vận chuyển và buôn bán gỗ trái phép vẫn diễn ra nhiều ở các tỉnh miền
trung,các tỉnh Tây Nguyên; duyên hải miền trung và các tỉnh miền núi phía bắc.
* Về thời gian thực hiện tội phạm: Tội phạm thường được thực hiện vào ban ngày và
vào mùa khô.
* Về công cụ thực hiện tội phạm: thường là cưa, búa, dao, tời máy, các loại dây cáp
hỗ trợ cho việc chặt hạ cây rừng. Về công cụ, phương tiện vận chuyển thường là các loại xe
đạp thồ, xe trâu bò, công nông, ô tô, máy kéo, thuyền bè v v…
* Nhân thân người phạm tội:
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, các bị cáo phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 2005 đến năm 2009 có đặc điểm nhân thân như
sau:
Bảng 2.5. Đặc điểm nhân thân của bị cáo đã xét xử sơ thẩm trong năm năm, từ
năm 2005 đến năm 2009
Năm
Đặc điểm nhân thân của bị cáo
Tổng
số bị
cáo
Nghề nghiệp Dân tộc Độ tuổi
Làm
ruộng
và
nghề
tự do
Không
nghề
nghiệp
Cán
bộ,
công
chức
Kinh Thiểu
số
Chưa
thành
niên
Từ
18
đến
50
Trên
50
2005 118 15 7 52 88 2 135 3 140
2006 61 9 5 29 46 2 71 2 75
2007 159 18 9 70 116 4 176 6 186
2008 136 14 10 58 102 3 150 7 160
2009 170 19 13 81 121 6 186 10 202
Tổng 644 75 44 290 473 17 718 28 763
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
Qua nghiên cứu 100 bản án ngẫu nhiên tác giả có các số liệu thống kê dưới đây về
một số đặc điểm nhân thân khác của bị cáo:
Bảng 2.6. Đặc điểm nhân thân của 115 bị cáo thuộc 100 vụ án vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng
Làm
ruộng
và
nghề
tự do
Không
nghề
nghiệp
Khôn
g biết
chữ
Văn
hoá
cấp
1
Văn
hoá
cấp
2
Văn
hoá
cấp
3
Nam
Nữ
DT
kinh
DT
thiểu
số
Cán
bộ,
công
chức
95=
82,6%
11=
9,5%
23=
20%
45=
39,1
%
36=
31,3
%
11=
9,56
%
112=
97,3
%
3=
2,6%
35=
30,4
%
80=
69,5%
9=
7,8%
Nguồn: Từ 100 bản án được tác giả sưu tầm từ các Toà án địa phương
Đồ thị số 2.2. Diễn biến tình hình số bị cáo là cán bộ, công chức phạm tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
2
4
6
8
10
12
14
2005 2006 2007 2008 2009
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở Việt
Nam và một số nƣớc trên thế giới
2.2.1. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở Việt
Nam
Một trong những công cụ để phòng, chống tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng có hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện nay chính là BLHS năm 1999
Luật bảo vệ và phát triển rừng ngày 03/12/2004; Nghị định số 23/2006/NĐ- CP ngày
03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng; Nghị định số 159/ 2007/
NĐ- CP ngày 30/10/2007 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT/ BNN&PTNT- BTP-
BCA- VKSNDTC- TANDTC; Luật bảo vệ môi trường năm 2005
Những văn bản pháp luật trên đây thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng trong đấu tranh
phòng chống tội phạm về khai thác và bảo vệ rừng.
Chúng ta đã tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến phòng chống tội phạm về
khai thác và bảo vệ rừng như Công ước Palecmo về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia,
Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999, Công ước khung về biến đổi khí
hậu của Liên hợp quốc năm 1992.
2.2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở một số
nước trên thế giới
Trung Quốc là một trong những quốc gia rất coi trọng đến công tác bảo vệ và phát
triển rừng, coi bảo vệ và phát triển rừng là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước mình. Nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược là khai thác
rừng một cách bền vững, khai thác đi đôi với phát triển và bảo vệ rừng, chính phủ Trung
Quốc đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ thiết thực, trong đó có các biện pháp
pháp lý như quy định và thi hành các chế tài dân sự, hành chính và đặc biệt là tăng cường áp
dụng các biện pháp hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về khai thác và bảo vệ
rừng.
BLHS Liên bang Nga cũng dành hẳn một chương riêng quy định các tội phạm về môi
trường, trong đó có tội liên quan đến khai thác và bảo vệ rừng. Chương 26 BLHS Liên bang
Nga quy định "các tội phạm về sinh thái" gồm 17 điều luật. Trong đó Điều 260 "tội chặt trái
phép cây gỗ và cây bụi", Điều 261 "tội hủy hoại hay làm hư hỏng rừng".
Lào cũng là một trong những quốc gia rất quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ và
phát triển rừng. Điều 128 BLHS Lào quy định: Người nào chặt cây, khai thác rừng không
đúng với quy định của Luật lâm nghiệp như đốt rừng, phá rừng hoặc bằng các hành vi khác
thì bị phạt tù từ ba tháng đến một năm hoặc bồi thường theo quy định của Luật lâm nghiệp.
Inđônêxia cũng là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á rất quan tâm đến công
tác bảo vệ và phát triển rừng cũng như khai thác rừng một cách bền vững. Bằng việc hình sự
hóa những hành vi khai thác rừng bất hợp pháp, hệ thống pháp luật (đặc biệt là luật hình sự)
của quốc gia này đã góp phần tích cực và có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống
loại tội phạm về khai thác và bảo vệ rừng.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng luôn có chiều hướng gia
tăng cả về số lượng và mức độ vi phạm.
Công tác quản lý kinh tế còn bộc lộ nhiều thiếu sót, đặc biệt là quản lý kinh tế lâm
nghiệp, quản lý rừng. Cách thức tổ chức và biện pháp quản lý còn nhiều sơ hở, từ đó tạo điều
kiện cho bọn lâm tặc tồn tại, hoạt động. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng còn chưa đầy đủ và hoàn thiện, do vậy tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng có khả năng bị bỏ lọt cao.
Điều 175 BLHS năm 1999 còn có những điểm chưa được hiểu thống nhất, trong cấu
thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng còn có những tình tiết
định lượng, định tính chưa được cụ thể hoá. Đã có văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 175 của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng việc áp dụng Điều 175 BLHS trên thực tế vẫn
còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Trước yêu cầu đó, việc hoàn thiện pháp luật hình sự về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và việc đảm bảo tổ chức thực hiện các quy
định này trên thực tế được đặt ra khá cấp thiết.
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
3.2.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
* Về mặt chủ quan của tội phạm: Nghiên cứu Điều 175 BLHS năm 1999 chúng ta
thấy các hành vi khách quan được mô tả trong tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng có thể xảy ra hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Người phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng dù là có lỗi cố ý hay vô ý thì đều bị xử lý như nhau về
cùng điều luật, khung hình phạt và chế tài áp dụng. Điều này thể hiện sự thiếu công bằng và
bất hợp lý trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Để giải quyết tình
trạng bất cập trên đây, có quan điểm cho rằng cấu thành tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng cần được sửa đổi theo hướng tách những hành vi cố ý ra khỏi những
hành vi vô ý và quy định trong các tội phạm độc lập: tội cố ý và tội vô ý, đồng thời có đường
lối xử lý khác nhau phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi
phạm tội. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này.
* Về một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt
Đối với tình tiết "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" và tình
tiết "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" để công tác đấu tranh
phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đạt hiệu quả cao, đồng
thời góp phần tích cực ngăn chặn nạn phá rừng bừa bãi trong tình hình hiện nay, khoản 1
Điều 175 BLHS nên sửa đổi lại theo hướng:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại Điều 189 của Bộ luật này hoặc
đã bị kết án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm….
Một thực tế hiện nay là tất nhiều hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng đã có đầy đủ căn cứ để xử phạt hành chính nhưng các cơ quan chức năng vì nhiều lý do
khác nhau nên đã không phát hiện ra hành vi vi phạm, do vậy không thể tiến hành xử phạt vi
phạm hành chính được. Mà Điều 175 BLHS năm 1999 lại quy định dấu hiệu “đã bị xử phạt
hành chính” là dấu hiệu định tội, nếu việc xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng không được thực hiện triệt để, kịp thời và
chính xác thì sẽ dẫn đến khả năng bỏ lọt tội phạm cao.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng rất đa dạng, một
người có thể bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần bởi các cơ quan có thẩm quyền khác
nhau, ở nhiều đơn vị hành chính khác nhau nhưng vẫn trong cùng một khoảng thời gian nhất
định. Nếu không có thông tin đầy đủ, công khai, kịp thời về những đối tượng và hành vi vi
phạm giữa các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này thì dễ
dẫn đến tình trạng một người bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần bởi nhiều cơ quan có
thẩm quyền khác nhau nhưng cơ quan nào cũng cho rằng đó là vi phạm hành chính lần đầu và
do vậy, vụ vi phạm đó không bị coi là có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm nên chăng chúng ta cần xây dựng hệ
thống thông tin điện tử trong phạm vi toàn quốc để cập nhật hàng ngày, hàng giờ các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng của các cơ quan có
thẩm quyền khác nhau, từ đó làm cơ sở cho việc xem xét, xử lý các vụ vi phạm pháp luật về
khai thác và bảo vệ rừng có dấu hiệu tội phạm.
Đối với tình tiết định khung hình phạt
Theo khoản 2 Điều 175 BLHS năm 1999 thì mức tối thiểu của khung hình phạt là hai
năm tù và mức tối đa của khung hình phạt lên đến mười năm tù. Rõ ràng việc quy định như
vậy không những không thể hiện được nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự mà còn gây
khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh những hành vi
tiêu cực, dễ dẫn đến sự tùy tiện khi quyết định hình phạt (xử quá nặng hoặc quá nhẹ).
Khoản 2 quy định phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm, khoản 3 quy định phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười năm năm.
* Về chủ thể của tội phạm
BLHS nên ghi nhận chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, theo đó, cơ quan, tổ
chức cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội “đáng kể” của hành vi và
hình phạt đối với pháp nhân có thể là phạt tiền, giải thể, cấm hoạt động v v…
3.2.2. Hình phạt
Cần nâng giới hạn mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền quy định tại khoản 1
và khoản 3 Điều 175 BLHS.
3.3. Hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan đến tội vi phạm các quy định về
khai thác về bảo vệ rừng
Thứ nhất, nên có quy định thống nhất giữa các quy định về xử lý vi phạm hành chính,
truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng.
Thứ hai, quy định cụ thể về quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có liên quan đến một số tội
phạm khác như tội chống người thi hành công vụ, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có, tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai [34, tr.123]. Hoàn
thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng song song với việc hoàn thiện pháp luật về tội chống người thi hành công vụ, tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai.
Kiến nghị rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật liên quan để kịp thời sửa đổi, bổ
sung, điều chỉnh hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Các văn bản này phải là cơ sở
pháp lý cụ thể, vững chắc đủ thẩm quyền cho hoạt động của các cơ quan chức năng quản lý
và bảo vệ rừng cũng như các cơ quan tư pháp (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) mà không
cần có những văn bản hướng dẫn kèm theo.
3.4. Mô hình lý luận tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Trên cơ sở một số kiến nghị được nêu ra tại mục 3.2 nêu trên có thể nêu ra mô hình
tội khai thác, buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản và tội vi phạm các quy định về bảo vệ
rừng trong BLHS như sau:
Điều 175 (sửa đổi): Tội khai thác, buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại Điều 189 hoặc tại Điều 189a
của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ mười năm triệu đồng đến bảy mươi triệu đồng, cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
a) Khai thác trái phép cây rừng;
b) Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm.
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Có tổ chức;
c) Phạm tội nhiều lần.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
năm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười lăm triệu đồng đến bảy mươi triệu
đồng (nếu hình phạt chính không phải là phạt tiền).
Điều 189a (bổ sung): Tội vi phạm các quy định về bảo vệ rừng
1. Người nào có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ rừng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại
Điều 175 hoặc tại Điều 189 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng
(nếu hình phạt chính không phải là phạt tiền).
KẾT LUẬN
Từ các kết quả nghiên cứu thu được cho phép đưa ra những kết luận sau:
1. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chính sách bảo
vệ và phát triển rừng, khai thác rừng một cách hiệu quả để vừa đảm bảo được các lợi ích kinh
tế, vừa đảm bảo an ninh sinh thái của con người và chính sách này từng bước được thể chế
hoá thành pháp luật trong đó có pháp luật hình sự.
2. Cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
pháp luật hình sự cũng từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trong BLHS năm 1999,
hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã được tách khỏi hành vi vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng và được quy định thành một tội danh độc lập. Việc
làm này nhằm thực hiện triệt để hơn nguyên tắc cá thể hoá hành vi cũng như cá thể hoá hình
phạt, đồng thời thể hiện thái độ lên án của Nhà nước đối với từng loại tội phạm. Ở nước ta
trong những năm gần đây mặc dù số vụ phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số các vụ phạm tội nói chung nhưng tình trạng
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đang có chiều hướng gia tăng cả
về số vụ và số người phạm tội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét