Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án": http://123doc.vn/document/569660-phan-dinh-tham-quyen-so-tham-dan-su-giua-cac-toa-an.htm


Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án

Nguyễn Thị Lài

Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Trần Anh Tuấn
Năm bảo vệ: 2012



Abstract: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa các Tòa án, ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án.
Bên cạnh đó, cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu về vấn đề này trong pháp luật tố tụng
dân sự một số nước trên thế giới nhằm so sánh, tham khảo. Nghiên cứu, đánh giá các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa các Tòa án, thực tiễn áp dụng chúng tại các Tòa án. Trên cơ sở tổng hợp kết quả
nghiên cứu, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn
thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.

Keywords: Luật dân sự; Quyền sơ thẩm; Tòa án; Pháp luật Việt Nam


Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống cơ quan tư pháp của Việt Nam thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp
chủ yếu, với chức năng, thẩm quyền xét xử các vụ án mà pháp luật quy định để bảo vệ pháp luật
và sự công bằng xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: "Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội…kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư
pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù
hợp với hoàn cảnh của nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế…; đổi mới thủ tục hành
chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý".
Đường lối cải cách tư pháp nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, trong đó có các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án. Bởi vì, các quy định này nếu được quy định cụ thể, rõ ràng, minh bạch sẽ là phương tiện cần
thiết, tạo điều kiện thuận tiện cho người dân trong việc tiếp cận công lý.
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam 2004 được thông qua ngày 15/06/2004 và được sửa đổi năm
2011 đã dành một chương gồm 13 điều luật để quy định về thẩm quyền của Tòa án, trong đó có
quy định về thẩm quyền của Tòa án theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án
tỉnh, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu. Các
quy định này là cơ sở pháp lý quan trọng để phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa
án.
Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn cho thấy, sau khi đã xác định được vụ việc thuộc thẩm quyền
sơ thẩm về dân sự của Tòa án theo loại việc thì bước quan trọng tiếp theo là phải xác định được vụ
việc đó thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp nào và Tòa án nơi nào sẽ có thẩm quyền giải
quyết. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
giữa các Tòa án cũng còn nhiều khiếm khuyết. Sự thiếu cụ thể, rõ ràng của pháp luật làm cho đương
sự lúng túng trong việc xác định Tòa án mà họ có thể nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ
việc.
Trong thực tiễn xét xử, các Tòa án cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc khi xác định một
vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án mình hay không. Từ thực tiễn công
việc tại ngành Tòa án và nhận thức được những khó khăn, vướng mắc mà các Tòa án thường gặp
phải trong việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, tác giả luận văn thấy rằng đây
là vấn đề cần phải được nghiên cứu để tháo gỡ.
Xét về lý luận, nếu các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án
được xây dựng một cách chính xác, khoa học sẽ tránh được sự chồng chéo khi Tòa án thực hiện
nhiệm vụ, giảm bớt phiền hà cho người dân khi thực hiện quyền khởi kiện của mình. Các luật sư,
Thẩm phán nếu nhận thức và vận dụng đúng các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự giữa các Tòa án cũng sẽ góp phần đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân.
Xét về thực tế, việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án có ý nghĩa xác định một
Tòa án cụ thể nào đó sẽ có thẩm quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án. Đây là hai
vấn đề căn bản trong quá trình phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án. Do vậy, khi
nghiên cứu về phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các Tòa án thì hai vấn đề sẽ được chú trọng, đó là
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp và phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
của Tòa án theo phạm vi lãnh thổ.
Từ thực trạng pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án, vướng mắc trong
thực tiễn vận dụng, tác giả luận văn thấy rằng cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu để làm
rõ hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án cũng như đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Với những lý do
trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài "Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án" làm
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
thẩm quyền sơ thẩm về dân sự của Tòa án. Có thể nói đến Luận án tiến sĩ "Phân cấp thẩm quyền
giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của
tác giả Lê Thu Hà; Luận án thạc sĩ "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam" của tác giả Lê Hoài Nam.v.v Tuy nhiên, những công trình nói trên chỉ đề cập tới
những khía cạnh khác nhau về vấn đề thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án. Đề tài "Phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án" là đề tài đầu tiên tập trung nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án một cách tổng thể và toàn diện.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án. Tìm hiểu những quy định của pháp luật hiện hành liên quan tới phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, phát hiện những điểm còn hạn chế, bất cập của
pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về vấn đề này.
Từ mục đích nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
- Đề tài không đi sâu nghiên cứu về việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo loại việc mà chỉ tập trung vào nghiên cứu hai vấn đề có mối liên quan trực tiếp tới việc phân
định thẩm quyền sơ thẩm giữa các Tòa án. Đó là, phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa
án các cấp; phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ giữa các Tòa án cùng cấp.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa
án, ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án. Bên cạnh đó, đề tài
cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu về vấn đề này trong pháp luật tố tụng dân sự một số nước trên
thế giới nhằm so sánh, tham khảo.
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, thực tiễn áp dụng chúng tại các Tòa án.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ xác định những hạn chế, vướng mắc, từ
đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước qua các giai đoạn lịch sử.
Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân
tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic v.v
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương1: Một số vấn đề lý luận về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án.
Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án và kiến nghị.




Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN
SƠ THẨM DÂN SỰ GIỮA CÁC TÒA ÁN
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa
án
1.1.1. Khái niệm về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án
Khái niệm thẩm quyền được nghiên cứu, đề cập đến trong pháp luật của nhiều nước khác
nhau trên thế giới. Có quan điểm cho rằng thẩm quyền là quyền xét xử, bao gồm nhiều mặt nhiều
khía cạnh, mang tính lịch sử cụ thể quy định quyền xét xử của Tòa án.
Còn theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2003 thì "thẩm quyền là
quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật".
Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành
động, quyết định của các cơ quan tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy
định.
Ở nước ta hiện nay, các Tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành chính lãnh thổ. Vì vậy,
thẩm quyền dân sự của Tòa án được hiểu là quyền của Tòa án đối với việc xem xét và ra các bản
án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và
tái thẩm.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án như sau:
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án là quyền của Tòa án trong việc xem xét giải quyết các
vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm dân sự.
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các cấp là thẩm quyền sơ thẩm của một cấp Tòa án
nào đó (cấp huyện, cấp tỉnh) trong việc thụ lý giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự.
Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là thẩm quyền của một Tòa án trong việc
thụ lý, giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể.
Trong quá trình thụ lý vụ việc dân sự nói chung, Tòa án bao giờ cũng phải xem xét là vụ việc đó
có thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc hay không. Sau đó xác định vụ việc đó thuộc
thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp nào và trong các Tòa cùng cấp đó thì Tòa án nào giải quyết.
Đề tài này không đi vào nghiên cứu về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc mà
chỉ tập trung vào việc xác định một vụ việc dân sự nếu có phát sinh tại Tòa án thì Tòa án nào sẽ có
thẩm quyền giải quyết.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự giữa các Tòa án như sau:
Phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án là việc phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa Tòa án cấp huyện với Tòa án cấp tỉnh và phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
các Tòa án cùng cấp theo phạm vi lãnh thổ.
1.1.2. Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
Việc phân định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án sẽ là cơ sở để xác định đúng
thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc xây dựng các tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án có ý nghĩa tạo cơ sở pháp lý
để phân định thẩm quyền sơ thẩm giữa các cấp Tòa án và giữa các Tòa án cùng cấp với nhau trong
giải quyết vụ việc. Việc phân định đúng thẩm quyền sẽ không gây mất thời gian, vật chất, tránh
được sự chồng chéo nhiệm vụ giữa các cấp Tòa án và giữa các Tòa án cùng cấp với nhau và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các tòa án
Hệ thống Tòa án hoạt động một cách hiệu quả, thì việc xây dựng các quy định về phân định
thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án phải được dựa trên một số tiêu chí nhất định.
- Tiêu chí về sự phù hợp với quy tắc phân định thẩm quyền tài phán quốc tế và quốc gia
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì pháp luật của Việt Nam về vấn đề phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án phải được xây dựng sao cho phù hợp với kỹ
thuật lập pháp của các nước tiên tiến trên thế giới.
- Tiêu chí về điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sự độc lập, khách
quan của đội ngũ cán bộ Tòa án
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, đòi hỏi đội ngũ thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải là những
người có phẩm chất đạo đức tốt, khách quan khi làm nhiệm vụ và có kiến thức chuyên môn.
Hiện nay điều kiện cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn giữa các địa phương còn chênh
lệch nhau.
- Tiêu chí về sự thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ việc
Khi có đơn khởi kiện của đương sự, khi cần thiết Tòa án có nhiệm vụ hoàn thiện hồ sơ,
nhiệm vụ này được thực hiện một cách khách quan, chính xác. Để làm tốt điều này cán bộ Tòa
án phải gần gũi với dân, có mối quan hệ tốt với cấp cơ sở ở địa phương mình.
- Tiêu chí về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của một trong các bên đương sự
Khi xây dựng pháp luật cần căn cứ vào tiêu chí này và xét trong từng loại vụ việc dân sự thì
Tòa án nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của đương sự nào sẽ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để giải
quyết nhanh chóng, chính xác vụ việc và thuận lợi cho đương sự khi tham gia tố tụng.
- Tiêu chí về nơi có tài sản tranh chấp
Việc xây dựng quy định về phân định thẩm quyền theo lãnh thổ được dựa trên tiêu chí Tòa
án nơi có bất động sản tranh chấp. Do tính chất đặc biệt của bất động sản nên Tòa án nơi có bất
động sản là Tòa án có điều kiện giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ việc dân sự.
- Tiêu chí nơi phát sinh sự kiện
Tiêu chí nơi phát sinh sự kiện như nơi đăng ký kết hôn, nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, nơi
thực hiện hợp đồng cũng là một trong những tiêu chí quan trọng cần xem xét đến khi xây dựng
quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Ngoài ra, trong những trường
hợp đặc biệt, nơi phát sinh sự kiện cũng có thể được hiểu theo nghĩa rộng là nơi cơ quan trọng tài
hoặc Tòa án đã ra phán quyết…
- Vấn đề đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn Tòa án giải quyết
Quyền tự định đoạt của đương sự được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng
dân sự. Theo nguyên tắc này đương sự tự mình quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự
quyết định quyền và lợi ích của mình theo quy định của pháp luật.
1.3. Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về phân định thẩm
quyền sơ thẩm dân sự giữa các tòa án
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
- Thời kỳ từ năm 1945 đến 1960
Thời kỳ này đầu tiên phải kể đến Sắc lệnh số 13 ngày 24/ 01/1945 về tổ chức các Tòa án và
ngạch thẩm phán và Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946. Đây là những văn bản pháp luật đầu tiên về
tố tụng dân sự của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Hai văn bản trên đã đề cập đến vấn đề thẩm quyền giữa các cấp Tòa án đó là: Tòa án sơ cấp
(ở các quận) và Tòa án đệ nhị cấp (ở các tỉnh).
- Thời kỳ từ năm 1960 đến năm 1989
Trong thời kỳ này, đáng chú ý nhất là các văn bản sau: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1960,
Công văn số 03-NCPL ngày 03/03/1966 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự giải
quyết việc ly hôn; Thông tư số 39-NCPL ngày 21/01/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về
dân sự… Trong các văn bản pháp luật này, vấn đề phân định thẩm quyền giữa các Tòa án và
phân định thẩm quyền trong cùng một cấp Tòa án với nhau bắt đầu được quy định.
Như vậy, việc nghiên cứu các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ trong giai đoạn từ 1945
đến 1989 cho thấy các quy định trong thời kỳ này đã đặt ra quy tắc để xác định thẩm quyền dân
sự của Tòa án theo lãnh thổ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để giải quyết các vụ kiện.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 được ban hành có hiệu lực
pháp luật từ ngày 01/01/1990 là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa những nội dung căn
bản của thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động năm 1996 đã được ban hành, tạo
cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế và lao động.
Ba pháp lệnh về thủ tục tố tụng đều xây dựng những quy định phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện. Theo đó, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Tòa án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án, trừ những việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh (Điều 11
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế 1994, Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động 1996).
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Các quy định về phân định thẩm quyền giữa Tòa án các cấp và các Tòa án cùng cấp hiện nay
được quy định tại các Điều 33, 34, 35 và 36 Bộ luật tố tụng dân sự. Do còn có những hạn chế
nhất định nên năm 2011 các quy định về vấn đề này đã được sửa đổi bổ sung cho phù hợp hơn.
Bộ luật tố tụng dân sự hiện nay quy định về thẩm quyền của Tòa án mở rộng hơn những vụ việc
dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án và tăng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.






Chương 2
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ
GIỮA CÁC TÒA ÁN
2.1. Các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa tòa án các cấp
Quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án các cấp hiện nay được quy
định tại Điều 33 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/NQ-
HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2.1.1. Quy định về những vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp huyện
Thẩm quyền của Tòa án cấp quận, huyện hiện nay được quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng
dân sự. Theo đó, về căn bản thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những vụ
việc thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án sau đây:
* Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình và một số tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng lý kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận:
Trong xu hướng cải cách tư pháp tăng cường thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện thì
quy định như trên là chưa phù hợp nên Bộ luật tố tụng dân sự đã sửa đổi và quy định mở rộng
thẩm quyền giải quyết cho Tòa án nhân dân cấp huyện toàn bộ các loại tranh chấp kinh doanh,
thương mại mà không phân biệt tính phức tạp.
* Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động:
Theo pháp luật hiện hành thì Tòa án cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm đối với các tranh
chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hòa giải lao
động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật
quy định.
Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự đã khắc phục được vướng mắc này bằng việc
quy định mở rộng hơn thẩm quyền của Tòa án cấp huyện đối với các tranh chấp lao động cá
nhân. Cụ thể là từ nay các tranh chấp lao động cá nhân mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa
giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hoặc không hòa
giải trong thời hạn pháp luật quy định sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện.
Tại Điều 33 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự cho thấy, các yêu cầu về kinh doanh thương
mại, lao động không thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện. Việc không quy
định các yêu cầu trên thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp quận, huyện mà thuộc thẩm quyền của
Tòa án cấp tỉnh là chưa thực sự hợp lý.
2.1.2. Quy định về những vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp tỉnh
Điều 34 BTTDS đã quy định cụ thể những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Về cơ bản thì quy định tại điều luật này là phù hợp với các cơ sở lý
luận đã được phân tích tại Chương 1 của luận văn.
Như vậy, yếu tố đương sự, tài sản ở nước ngoài hay vấn đề ủy thác tư pháp được coi là căn
cứ để phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh khi Tòa
án thụ lý vụ việc dân sự, còn sau khi Tòa án đã thụ lý và đang giải quyết vụ việc thì những yếu tố
này không làm thay đổi thẩm quyền giải quyết giữa các cấp Tòa án.
2.2. Các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp
Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các cấp Tòa án là tiền đề để phân định thẩm
quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp còn được gọi là thẩm quyền theo lãnh thổ. Vấn
đề này được quy định tại Điều 35, Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự và được hướng dẫn tại Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2.2.1. Các quy định có tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án cùng cấp
2.2.1.1. Thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản
Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bất động sản là Tòa án nơi có bất động sản
(điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự).
Để xác định được như thế nào là tranh chấp về bất động sản thì trước tiên cần phải xác định
bất động sản bao gồm những tài sản nào và tài sản đó có phải là đối tượng của việc tranh chấp
hay không. Như vậy, đối với các tranh chấp về bất động sản thì khi thụ lý đơn khởi kiện, Tòa án
cần xác định đúng địa điểm của bất động sản mà các đương sự đang tranh chấp có nằm trên địa
giới hành chính của Tòa án mình hay không nếu không thuộc địa giới hành chính của Tòa án
mình thì phải chuyển đơn khởi kiện và hướng dẫn cho đương sự.
2.2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của bị đơn, người bị
yêu cầu
* Về thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của bị đơn
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thì "Tòa án nơi bị đơn cư
trú, làm việc nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động…". Như vậy, theo quy định này thì tùy thuộc vào bị đơn là cơ
quan, tổ chức hay bị đơn là cá nhân mà thẩm quyền của Tòa án được xác định khác nhau.
* Về thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của người bị yêu cầu
Tòa án nơi người bị yêu cầu cư trú, làm việc hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết. Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 35
các trường hợp mà Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của người bị yêu cầu có thẩm
quyền giải quyết.
2.2.2. Các quy định khác về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng
cấp
2.2.2.1. Quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo sự thỏa thuận của các
đương sự
Theo điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi bổ sung năm
2011: "Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú,
làm việc của nguyên đơn nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu
nguyên đơn là cơ quan tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này".
Quy định này đã thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo của pháp luật trong việc đương sự có quyền
lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp dân sự, không gò bó ở những quy định cứng nhắc, tạo điều
kiện thuận lợi tối đa cho các đương sự khi tham gia tố tụng.
2.2.2.2. Quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp theo
sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu
* Quyền lựa chọn Tòa án của nguyên đơn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn có quyền lựa chọn
Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
trong các trường hợp: Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có
thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải
quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh, tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu
cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết…
* Quyền lựa chọn Tòa án của người yêu cầu
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi
bổ sung năm 2011 thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ
sở hoặc nơi có tài sản của người bị yêu cầu giải quyết đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại
khoản 1, 2, 3, 4, 6 và 7 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra, đối với yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng
dân sự thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật
giải quyết. Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi người con cư trú giải quyết
(điểm b, c khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự).
Tóm lại, Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành đã có những quy định khá toàn diện và cụ thể
về vấn đề phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án hiện nay, đặc biệt là các quy
định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Tất cả những quy định
này của pháp luật được xây dựng nhằm mục đích giúp các Tòa án xác định đúng phạm vi thẩm
quyền trong giải quyết các vụ việc dân sự của mình, tạo điều kiện tốt nhất cho các đương sự có
thể bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tham gia tố tụng.
2.2.2.3. Quy định riêng biệt về phân định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án đối với các vụ việc
dân sự
Trên đây chúng ta đã làm rõ các quy định của pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án cùng cấp dựa trên các tiêu chí có tính nguyên tắc như Tòa án nơi có bất
động sản; Tòa án nơi bị đơn, người bị yêu cầu cư trú, làm việc hoặc có trụ sở và các tiêu chí khác
như theo sự thỏa thuận của các bên đương sự hoặc sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu. Tuy
nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự cũng có những quy định rất riêng biệt về phân định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp mà không tuân theo các quy tắc trên. Cụ thể như sau:
- Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết có thẩm quyền giải quyết
yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết (điểm c khoản 2 Điều 35 Bộ luật tố tụng
dân sự); Tòa án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan
đến việc thi hành án; các yêu cầu liên quan tới hôn nhân, gia đình do đặc thù của từng loại việc nên
quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án cùng cấp trong việc giải quyết các loại việc
này cũng khác nhau, cụ thể là: Đối với yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật; Đối với yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; Đối với yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Như vậy, Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành đã có những quy định khá toàn diện và cụ
thể về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án, đặc biệt là các quy định về thẩm
quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ. Tất cả những quy định này được xây dựng nhằm
mục đích giúp các Tòa án xác định được đúng thẩm quyền trong giải quyết các vụ việc dân, đồng
thời là cơ sở pháp lý cho các đương sự có thể khởi kiện đúng Tòa án.
Trên đây cũng đã chỉ ra một số bất cập trong các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Tòa án.

Chương 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN SƠ THẨM DÂN SỰ
GIỮA CÁC TÒA ÁN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
tòa án
3.1.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
Tòa án các cấp
Quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phân
định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án đã cho thấy những bất cập sau.
- Quy định về một số những yêu cầu về kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền
của Tòa cấp tỉnh là chưa thực sự phù hợp với thực tế
Có những tranh chấp về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động… là những vụ án có
nhiều khó khăn, phức tạp lại thuộc thẩm quyền của Tòa cấp huyện. Ngược lại, một số những yêu
cầu về kinh doanh, thương mại, lao động lại thuộc thẩm quyền của Tòa cấp tỉnh.
- Một số quy định về không thay đổi thẩm quyền của Tòa án là chưa thực sự hợp lý
Có nhiều trường hợp sau khi thụ lý Tòa án mới xác định được vụ án cần phải ủy thác tư pháp
cho cơ quan Lãnh sự hoặc cho Tòa án nước ngoài thì theo quy định tại Điều 412 của Bộ luật tố
tụng dân sự, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
Quy định trên dẫn tới bất hợp lý là trên thực tế những vụ việc có cùng bản chất là cần phải
ủy thác cho cơ quan Lãnh sự, cho Tòa án nước ngoài nhưng thời điểm phát hiện ra sự việc cần
phải ủy thác tư pháp lại có ý nghĩa quyết định vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án
cấp tỉnh hay cấp huyện.
- Sự thiếu cụ thể trong việc quy định các tiêu chí về vụ việc mà Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên
để giải quyết dẫn tới sự tùy tiện trong áp dụng
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án cấp tỉnh có quyền lấy
những vụ việc thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp huyện lên để giải quyết. Các văn bản
hướng dẫn áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự không có hướng dẫn là những trường hợp nào Tòa án
cấp tỉnh được quyền lấy vụ việc của Tòa án cấp huyện lên để giải quyết.
3.1.2. Thực tiễn thực hiện các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa
các Tòa án cùng cấp
- Sự thiếu rõ ràng trong quy định về thẩm quyền của Tòa án theo nơi bị đơn cư trú, làm việc
Bộ luật tố tụng dân sự quy định nếu bị đơn là cá nhân thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Có trường hợp nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án nơi làm việc
của bị đơn chứ không khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn cư trú và bị đơn không đồng ý theo kiện tại
Tòa án này. Quy định trên cần được giải thích theo hướng nếu bị đơn cư trú một nơi nhưng làm
việc một nơi thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi bị đơn cư trú. Trong trường hợp không thể
xác định được nơi cư trú của bị đơn thì Tòa án nơi bị đơn làm việc có thẩm quyền giải quyết.
- Vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp tranh chấp về tài
sản là bất động sản
Theo điểm c Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Quy định này được xây dựng dựa trên quan
niệm là Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án có điều kiện tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp.
Vấn đề đặt ra cần phải làm rõ như thế nào là tranh chấp về bất động sản để xác định Tòa án
có thẩm quyền. Trong những văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự cần có hướng
dẫn rõ về vấn đề này.
- Vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên của các tiêu chí khi xác định thẩm quyền của
Tòa án
Trên thực tế có những trường hợp tranh chấp về bất động sản nhưng các bên lại thỏa thuận
lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú giải quyết (điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân
sự). Vậy trong trường hợp này thì Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự hay Tòa án nơi nguyên đơn cư trú theo thỏa
thuận với bị đơn sẽ có thẩm quyền giải quyết (điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự). Dựa
trên cơ sở lý luận được phân tích tại Chương 1 của luận văn thì cần phải giải thích luật pháp theo
hướng căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì chỉ có Tòa án
nơi có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bất động sản. Quy định tại điểm a,
b khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự không áp dụng trong trường hợp tranh chấp về bất
động sản.
- Vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền trong trường hợp tranh chấp về quan hệ về tài
sản, bao gồm cả động sản và bất động sản
Đối với những vụ việc chỉ có một quan hệ pháp luật tranh chấp là quan hệ về tài sản, trong
đó bao gồm cả động sản và bất động sản (ví dụ: tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại, yêu cầu chia di sản thừa kế…) thì Tòa án nào sẽ có thẩm
quyền giải quyết.
- Quy định về phạm vi các Tòa án mà đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn còn hạn chế
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và được sửa đổi năm 2011 chỉ hạn chế quyền của đương sự
trong việc thỏa thuận về Tòa án có thẩm quyền giải quyết trong phạm vi các Tòa án nơi cư trú,
làm việc, hoặc có trụ sở của nguyên đơn mà chưa quy định mở rộng quyền thỏa thuận này đối
với các Tòa án khác như Tòa án nơi các bên thực hiện hợp đồng, nơi một bên có chi nhánh, nơi
có tài sản… So với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế giới thì quy
định của pháp luật Việt Nam chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự.
- Pháp luật chưa có quy định về việc xử lý trong trường hợp thỏa thuận của đương sự về lựa
chọn Tòa án không đúng pháp luật
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành cho thấy ngoài việc quy định khá hạn hẹp về
các Tòa án mà các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn thì việc xử lý như thế nào khi thỏa
thuận của các đương sự không phù hợp với các quy định về phân định thẩm quyền giữa các Tòa
án cũng không được quy định. Vấn đề đặt ra là khi đương sự thỏa thuận với nhau về Tòa án giải
quyết không phù hợp với quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ trong Bộ luật tố tụng
dân sự thì sẽ xác định thẩm quyền của Tòa án theo sự thỏa thuận của đương sự hay ưu tiên xác
định thẩm quyền theo quy định về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Trong thực tiễn việc áp
dụng pháp luật những trường hợp này cũng chưa thống nhất, dẫn đến nhiều vụ án phải chuyển đi
chuyển lại do có nhiều quan điểm khác nhau.
- Về vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật theo Điều 35,
36 của Bộ luật tố tụng dân sự
Việc áp dụng quy định tại Điều 35, 36 Bộ luật tố tụng dân sự về vấn đề này có nhiều điểm
vướng mắc, yêu cầu đặt ra là các cơ quan có thẩm quyền cần có hướng dẫn rõ ràng, cụ thể hơn
về cách xác định thẩm quyền theo Điều 35 và Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với các yêu cầu liên quan tới hoạt
động của Trọng tài thương mại Việt Nam còn thiếu cụ thể
Vấn đề thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ đối với những việc liên quan
đến hoạt động của Trọng tài thương mại không được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng dân
sự mà thực hiện thông qua sự dẫn chiếu tới quy định của Luật Trọng tài thương mại Việt Nam.
Việc dẫn chiếu này không thuận lợi cho đương sự và Tòa án trong việc tìm hiểu và áp dụng pháp
luật.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về phân định thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các tòa án
Từ kết quả nghiên cứu tại Chương 1 và Chương 2, cũng như qua việc phân tích về những
vướng mắc bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật nêu trên, tác giả luận văn đưa ra một số
những đề xuất sau đây:
3.2.1. Kiến nghị sửa đổi các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa Tòa
án các cấp
- Sửa đổi bổ sung quy định về một số những yêu cầu về kinh doanh, thương mại, lao động sẽ
thuộc thẩm quyền của Tòa cấp huyện
Trong số những yêu cầu về kinh doanh thương mại, lao động hiện nay cần xác định rõ một
số yêu cầu thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền giải
quyết đối với những yêu cầu nếu có đương sự, tài sản ở nước ngoài hoặc việc giải quyết cần phải
ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan tư pháp của nước
ngoài.
- Sửa đổi quy định về không thay đổi thẩm quyền của Tòa án cho phù hơn với thực tiễn
Nên sửa đổi quy định nêu trên theo hướng đối với những vụ án Tòa án cấp huyện đã thụ lý
đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình giải quyết vụ án mới có thay đổi theo hướng có tài sản
hoặc có đương sự ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt
Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài thì Tòa án cấp huyện đó phải ra quyết định chuyển vụ
việc cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết để đáp ứng yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất, trình độ
chuyên môn.
- Bổ sung quy định nhằm xác định cụ thể các vụ việc mà Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để
giải quyết
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền
giải quyết những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà Tòa cấp
tỉnh lấy lên để giải quyết, cần quy định rõ là khi lấy vụ việc lên để giải quyết thì Tòa án cấp tỉnh
phải có văn bản để hạn chế tình trạng tùy tiện trong việc áp dụng.
3.2.2. Kiến nghị sửa đổi các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các
Tòa án cùng cấp
- Cần có sự điều chỉnh lại quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự theo
hướng những tranh chấp bất động sản chỉ có Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải
quyết
Nên sửa lại quy định tại điểm c khoản 1 điều luật này như sau: "Đối với những tranh chấp
bất động sản, Tòa án duy nhất có thẩm quyền là Tòa án nơi có bất động sản". Bên cạnh đó, cần
có quy định cụ thể của pháp luật giải thích thuật ngữ như thế nào là tranh chấp bất động sản.
- Cần có hướng dẫn cụ thể về quy tắc xác định thẩm quyền trong trường hợp vụ việc có
nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp
Vụ việc có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có bất
động sản tranh chấp nếu đối tượng tranh chấp là bất động sản đồng thời đó là quan hệ tranh chấp
chính cần giải quyết trong vụ án dân sự đó. Trong vụ án có một quan hệ pháp luật tranh chấp là
quan hệ tài sản, bao gồm cả động sản và bất động sản thì ưu tiên Tòa án nơi có bất động sản giải
quyết.
- Bổ sung thêm một nguyên tắc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh
thổ đối với các tranh chấp thừa kế
Bộ luật tố tụng dân sự nên bổ sung thêm một nguyên tắc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự của Tòa án theo lãnh thổ đối với các tranh chấp thừa kế. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thừa kế là Tòa án nơi mở thừa kế.
- Bổ sung thêm quy định về xác định thứ tự ưu tiên của các tiêu chí phân định thẩm quyền
theo lãnh thổ
Cần hướng dẫn quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng việc áp dụng
quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ theo thứ tự ưu tiên như sau:
Nếu là tranh chấp về bất động sản thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết;
nếu không phải là tranh chấp về bất động sản thì chỉ lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hoặc có
trụ sở nếu các bên có thỏa thuận; nếu không thuộc hai trường hợp trên thì Tòa án có thẩm quyền
giải quyết là Tòa án mà nguyên đơn, người yêu cầu lựa chọn theo quy định của pháp luật.
- Về vấn đề thỏa thuận của đương sự trong việc lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp
Điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự có thể sửa lại như sau: "Các bên trong quan hệ
dân sự có quyền tự định đoạt với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của
nguyên đơn nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ
quan tổ chức; nơi thực hiện hợp đồng; nơi có một bên có chi nhánh hoặc nơi có tài sản đang tranh
chấp giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động quy định tại các Điều 25, 27, 29 và 31 Bộ luật này. Khi có tranh chấp xảy ra, nguyên đơn chỉ
được phép khởi kiện tại Tòa án đã thỏa thuận".
- Cần bổ sung quy định về việc xử lý trong trường hợp thỏa thuận của đương sự về lựa chọn
Tòa án không đúng pháp luật vào Bộ luật tố tụng dân sự quy định theo hướng sau đây :
Người khởi kiện chỉ được khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền được quy định trong Bộ luật
tố tụng dân sự; nếu đương sự có thỏa thuận về việc lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp nhưng
thỏa thuận đó không phù hợp với pháp luật thì Tòa án được các đương sự lựa chọn không có
thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp này, Tòa án nhận đơn phải căn cứ vào các quy định về
phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án để chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có
thẩm quyền.
- Cần cụ thể hóa hơn các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm theo sự lựa chọn của
nguyên đơn
Theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự đưa ra quy định đối với các
vụ án có nhiều bất động sản tranh chấp thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong
các bất động sản giải quyết. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng, dẫn tới việc nguyên đơn có
thể tự do lựa chọn Tòa án và sự lựa chọn đó của nguyên đơn gây ra sự bất lợi cho bị đơn khi
tham gia tố tụng. Do vậy, nhà lập pháp cần đặt ra những tiêu chí cụ thể hơn, ví dụ như nguyên
đơn có thể lựa chọn Tòa án nơi có bất động sản có giá trị lớn nhất trong các bất động sản.
- Cụ thể hóa các quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm Tòa án đối với các yêu cầu liên
quan tới hoạt động của Trọng tài thương mại Việt Nam
Trên đây chúng ta đã phân tích về sự thiếu cụ thể trong các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với các yêu cầu liên quan tới hoạt động của
Trọng tài thương mại. Để thuận tiện hơn cho các Tòa án khi áp dụng pháp luật, chúng tôi kiến
nghị cần phải có văn bản hướng dẫn đối với quy định tại điểm o khoản 2 Điều 35 Bộ luật tố tụng
dân sự về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với các yêu cầu liên quan tới hoạt động của
Trọng tài thương mại cụ thể hơn.


KẾT LUẬN
Việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các Tòa án là một quá trình quan trọng không
thể thiếu khi tiếp cận và nghiên cứu về chế định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án. Việc nghiên
cứu nhằm cung cấp cho người học, người làm công tác thực tiễn một tư duy logic khi xem xét phân

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam": http://123doc.vn/document/569895-toi-vi-pham-cac-quy-dinh-ve-khai-thac-va-bao-ve-rung-trong-luat-hinh-su-viet-nam.htm


Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam


Vũ Thị Huyền


Khoa Luật
Luận văn ThS. ngành: Luật hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. Trương Quang Vinh
Năm bảo vệ: 2010


Abstract. Nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở đó đưa ra khái
niệm về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Phân tích các khía
cạnh pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Nghiên cứu
thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực tiễn giải
quyết các vụ án này tại Việt Nam. Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những
ảnh hưởng tiêu cực của những hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng như đối với môi trường sinh thái.
Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng, đồng thời xây dựng mô hình lý luận một cách hiệu quả, có tính khả thi
cao về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.

Keywords. Luật hình sự; Tội phạm; Pháp luật Việt Nam; Rừng


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
` Việt Nam là nước có diện tích rừng và đất rừng khá lớn, chiếm khoảng 30% diện tích
lãnh thổ. Là nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế lớn nên rừng đã trở thành đối tượng, mục tiêu
khai thác của nhiều cá nhân, tổ chức. Do vậy, khai thác rừng một cách bền vững cũng như
bảo vệ rừng ở Việt Nam trở thành một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Tình hình tội phạm về kinh tế nói chung, đặc biệt là tình hình tội phạm vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng có chiều hướng gia tăng. Tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã gây ra cho xã hội những hậu quả nghiêm trọng
đồng thời trở thành một nguy cơ, thách thức to lớn, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương phát triển kinh tế mà Đảng, Nhà nước đã đề ra và đe doạ nghiêm trọng đến sự cân
bằng môi trường sinh thái.
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có
hiệu lực từ ngày 01/7/2000 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cơ bản, toàn diện Bộ luật hình sự năm
1985. Bên cạnh quy định của luật hình sự đối với hành vi vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng còn có các quy định của các văn bản pháp luật thuộc ngành và lĩnh vực khác
cùng điều chỉnh các quan hệ và hành vi liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Việc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một mặt góp phần nghiêm trị những hành
vi vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng; mặt khác cũng thấy được
giới hạn cần trừng trị bằng pháp luật hình sự đối với hành vi vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
được mô hình lý luận của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong khoa
học luật hình sự, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của Đảng, Nhà nước và nhân
dân đối với loại tội này.
Chính vì lý do nêu trên, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam, làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Số lượng các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến tội phạm này không
nhiều. Có thể kể đến như luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Văn Hà: Trách nhiệm hình
sự đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và đấu tranh phòng ngừa tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2002; bài viết của
tác giả Đỗ Đức Hồng Hà: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng- những tồn
tại và vướng mắc cần tháo gỡ, tạp chí Toà án nhân dân số 14 năm 2005. Và gần đây nhất là
luận án tiến sỹ luật học của tác giả Phạm Đình Xinh: Hoạt động điều tra tội phạm vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý và
chức vụ.
Các công trình này hoặc là chỉ nghiên cứu một phần về trách nhiệm hình sự của loại
tội này cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm này trên một phạm vi hẹp; hoặc là nghiên
cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động điều tra tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của cơ quan cảnh sát điều tra; hoặc là chỉ
dừng lại ở các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở đó đưa ra khái niệm về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
- Nghiên cứu thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực
tiễn giải quyết các vụ án này tại Việt Nam.
- Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của những hành
vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam
cũng như đối với môi trường sinh thái.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng, đồng thời xây dựng mô hình lý luận một cách hiệu quả, có tính khả thi cao về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng như các vấn đề có liên quan đến tội này tại Việt
Nam từ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay.
Về không gian: Nghiên cứu tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng tại
Việt Nam, trong sự so sánh, liên hệ với loại tội này ở một số nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết những nhiệm
vụ mà đề tài đặt ra như phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
lịch sử…
5. Điểm mới về mặt khoa học
- Làm rõ về mặt lý luận cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng đồng thời xây dựng mô hình lý luận về loại tội này trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn được trình bày theo kết cấu sau đây: Phần
mở đầu, 3 chương và phần kết luận.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 1999
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Nhìn chung, thời kỳ này chúng ta chỉ có một số ít các văn bản pháp luật quy định về
các hành vi vi phạm khai thác và bảo vệ rừng như: Sắc lệnh số 142/SL ngày 21/12/1949 quy
định việc lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng; Sắc lệnh số 26/SL ngày
25/02/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu
và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở
việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước.
Thời kỳ từ năm 1954 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 xuất hiện một số văn
bản pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có giá
trị pháp lý cao như: Pháp lệnh quy định về quản lý Nhà nước đối với công tác phòng cháy và
chữa cháy (ngày 27/9/1961); Nghị định số 221-CP ngày 29/12/1961 của Hội đồng Chính phủ
về việc phòng cháy và chữa cháy rừng; Nghị định số 39-CP ngày 05/4/1963 của Hội đồng
Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (ngày 21/10/1970); Pháp lệnh ngày 06/9/1972 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định việc bảo vệ rừng; Nghị quyết số 155-CP ngày 03/10/1973 của
Hội đồng Chính phủ về việc thi hành pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng…. Đặc biệt, trong
thời kỳ này vấn đề bảo vệ rừng đã được đề cập trong đạo luật cao nhất của Nhà nước ta- Hiến
pháp năm 1980.
Bên cạnh những văn bản kể trên, cùng thời gian này Chính phủ và các Bộ, Ngành đã
ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan về quản lý và bảo vệ rừng như: Quyết định số
41- TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định các khu rừng cấm; Nghị định số 221/CP
của Thủ tướng Chính phủ về phòng cháy và chữa cháy rừng; Thông tư số 24-TT/75 ngày
20/9/1975 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời về việc bảo vệ và khắc phục hồi
rừng v v…
Như vậy, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, việc xử lý tội phạm về bảo vệ
rừng vẫn được thực hiện theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh
quy định việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Những quy định
nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật thời kỳ này đã bước đầu đặt cơ sở quan trọng cho
pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực từ
ngày 01/11/1986 là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta. Trong bộ luật này lần đầu tiên
tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng đã được quy định tại một điều độc lập:
Điều 181 chương VII- Các tội phạm về kinh tế- Bộ luật hình sự năm 1985.
Trong một thời gian dài, các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội Vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng hầu như không có sự sửa đổi, bổ sung. Điều này được
minh chứng qua 04 lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1985 vào các năm 1989, 1991,
1992 và 1997. Chỉ duy nhất vào lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1989 tội vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng có sự sửa đổi về hình phạt bổ sung. Theo đó người
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể bị phạt tiền đến
50.000.000đ (nâng mức phạt tiền lên tối đa là 50.000.000đ).
1.2. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
1.2.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy định tại Điều
175 của Bộ luật hình sự năm 1999. Điều luật quy định như sau:
Điều 175. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn
vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù tù ba tháng đến ba năm:
a) Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà
nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 của Bộ
luật này;
b) Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt
tù từ hai năm đến mười năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng
[2, tr.125].
Trên cơ sở Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 có thể rút ra khái niệm vệ tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng như sau: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm những quy định của Nhà nước về
khai thác và bảo vệ rừng nói riêng cũng như xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực quản lý kinh tế nói chung.
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
* Khách thể của tội phạm
Khách thể trực tiếp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng chính là
các quan hệ xã hội thể hiện chế độ quản lý của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Thông
qua việc bảo vệ các quan hệ xã hội này Nhà nước bảo vệ được trật tự quản lý kinh tế (khách
thể loại).
Luật hình sự của một số nước trên thế giới quan niệm khách thể của tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng có sự khác nhau nhất định tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Về đối tượng tác động của tội phạm: là rừng và các sản phẩm của rừng như gỗ và các
lâm thổ sản khác.
* Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo
Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 bao gồm 04 loại hành vi:
Thứ nhất, hành vi khai thác trái phép cây rừng. Hành vi khai thác trái phép cây rừng
thường được biểu hiện cụ thể dưới các dạng như:
- Tổ chức, cá nhân khai thác trái phép cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép trong trường hợp pháp
luật quy định việc khai thác đó chỉ được thực hiện khi đã được cấp giấy phép và giấy phép
còn trong thời hạn. Dạng hành vi này bao gồm cả trường hợp khai thác cây rừng ngoài khu
vực cho phép.
- Tổ chức, cá nhân khai thác cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng
khi đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép và giấy phép còn trong thời hạn
nhưng đã thực hiện không đúng quy định ghi trong giấy phép.
Thứ hai, hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ
rừng: được hiểu là những hành vi không được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự mà được
quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan và những hành vi mà nhà làm luật dự
liệu sẽ xuất hiện trong tương lai (tất nhiên những hành vi này phải là những hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng).
Thứ ba, hành vi vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép: Là hành vi vận chuyển, buôn bán
gỗ không đúng với quy định của Nhà nước.
Dấu hiệu thứ hai, người có hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
Đây là trường hợp trước đó người có hành vi vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng đã bị xử phạt hành chính (cảnh cáo, phạt tiền…) về một trong các hành vi quy
định tại khoản 1 Điều 175 hoặc khoản 1 Điều 189 BLHS và chưa hết thời hạn được coi là
chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
nay lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 175.
Đã bị kết án về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, chưa được xoá
án tích mà còn vi phạm
Nghĩa là tính từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án
chưa quá các thời hạn theo Điều 64 BLHS năm 1999.
Gây hậu quả nghiêm trọng
Mức độ gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS được
hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT- BNN&PTNT- BTP- BCA- VKSNDTC-
TANDTC.
Hậu quả của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là những thiệt hại
về mặt vật chất như số lượng gỗ bị khai thác trái phép, diện tích rừng bị phá huỷ, lấn chiếm…
ngoài ra, loại tội phạm này còn gây ra những hậu quả khác như xâm phạm tới trật tự quản lý
kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng; làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cân bằng sinh thái, là nguyên nhân gây ra bão lụt, hạn hán, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế, xã hội và đời sống con người.
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng cho thấy, tội phạm này có cấu thành vật chất. Theo đó hậu quả của tội phạm là dấu
hiệu, là điều kiện bắt buộc để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Giữa hành vi
khách quan với hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng luôn
luôn có mối quan hệ nhân quả với nhau.
* Chủ thể của tội phạm
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng không quy định chủ thể đặc
biệt. Nghĩa là bất kỳ ai, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Ở tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng thì nhân thân của người phạm
tội có ý nghĩa đối với việc định tội. Theo đó, cấu thành tội phạm cơ bản của tội này đòi hỏi
người phạm tội phải có dấu hiệu phản ánh đặc điểm xấu về nhân thân là “đã bị xử phạt hành
chính” hoặc là “đã bị kết án”.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể là lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý. Thông thường đối với những người thực hiện hành vi khai thác trái phép
cây rừng, vận chuyển gỗ trái phép, buôn bán gỗ trái phép thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố
ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
Động cơ, mục đích phạm tội ở mỗi tội phạm cụ thể là khác nhau, có thể là vụ lợi, có
thể là nể nang trong quan hệ bạn bè, gia đình hay động cơ khác nhưng động cơ vụ lợi là chủ
yếu.
* Hình phạt
Điều 175 có hai khung cơ bản. Khung hình phạt chính: Người phạm tội có thể bị áp
dụng một trong các hình phạt như phạt tiền, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
có thời hạn. Kèm theo hình phạt chính có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
1.2.3. Khung pháp lý về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Khung pháp lý về đấu tranh phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ hai, các văn bản pháp luật khác.
Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT- BNN&PTNT- BTP- BCA- VKSNDTC-
TANDTC ngày 08 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội
phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Luật bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004; Nghị định số 23/2006/NĐ- CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Nghị định số 159/2007/NĐ- CP ngày 30/10/2007
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản; Luật môi trường năm 2005.
Các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, về vận chuyển, buôn bán gỗ
thường là của Chính phủ hoặc của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thứ ba, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Việt Nam đã ký kết các Công ước quốc tế liên quan đến phòng chống tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng như: Công ước Palecmo về phòng chống tội phạm
xuyên quốc gia, Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999, Công ước khung
về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 1992.
1.2.4. Phân biệt tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với một số tội
phạm khác
Thứ nhất, địa điểm phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội buôn
lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
Thứ hai, cơ sở pháp lý quan trọng nhất để phân biệt tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng với tội hủy hoại rừng là căn cứ vào các hành vi khách quan của người
phạm tội.
Thứ ba, đối tượng tác động của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm của tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm.

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO
VỆ RỪNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM

2.1. Tình hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
nền kinh tế thị trƣờng Việt Nam
2.1.1.Thực trạng của tình hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
Theo số liệu thống kê của ngành Toà án, từ năm 2005 đến năm 2009, Toà án nhân dân
các cấp đã xét xử sơ thẩm 681 vụ án vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với số
bị cáo là 763. (Bảng 2.1)

Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
Năm Số vụ Số bị cáo
2005 133 140
2006 71 75
2007 161 186
2008 140 160
2009 176 202
Tổng cộng 681 763
Nguồn: TAND tối cao [32]

Để thấy được mức độ nghiêm trọng của tình hình tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng chúng ta cần so sánh nó với thực trạng tình hình tội phạm nói chung
trong cùng thời gian năm năm qua, từ năm 2005 đến năm 2009 (Bảng 2.2).

Bảng 2.2. Số vụ, số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng so sánh với tội phạm nói chung của từng năm, từ năm 2005 đến năm 2009.

Nhóm tội

Năm

Tội VPCQĐVKTVBVR
(1)
Số vụ/ Số bị cáo
Tội phạm nói
chung (2)
Số vụ/ Số bị cáo
Tỷ lệ %
(1) so với (2)
2005 133/140 55.237/91.224 0,24%/0,15%
2006 71/75 62.116/103.733 0,11%/0,07%
2007 161/186 62.793/107.518 0,25%/0,17%
2008 140/160 63.040/109.338 0,22%/0,14%
2009 176/202 65.462/114.344 0,26%/0,17%
Tổng cộng 681/763 308.648/526.157 0,22%/0,14%
Nguồn: TAND tối cao [32]

Từ bảng thống kê trên chúng ta có các biểu đồ so sánh số lượng tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng và số lượng tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm
2005 đến năm 2009.



Biểu đồ 2.1. Số lƣợng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và số
lƣợng tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
2005 2006 2007 2008 2009
VPQDVKTVB
VR
TP chung

Nguồn: TAND tối cao [32]
Biều đồ 2.2. Số lƣợng bị cáo của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng và số bị cáo của các tội phạm nói chung trong năm năm, từ năm 2005 đến năm
2009
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
2005 2006 2007 2008 2009
VPQDVKTVB
VR
TP chung

Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
Nếu so sánh với tổng số các vụ phạm tội nói chung trong 05 năm từ năm 2005 đến
năm 2009 thì số vụ phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng chiếm tỷ lệ
0,22%. Tỷ lệ này là không lớn. Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số thống kê qua công tác xét
xử. Bên cạnh đó còn có số tội phạm ẩn không bị phát hiện vì những lý do khác nhau để thấy
rõ được điều này chúng tôi lập bảng 2.3:
Bảng 2.3. Số vụ vi phạm về khai thác, mua bán, vận chuyển và chế biến lâm sản
so sánh với số vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng nói chung cũng nhƣ số vụ/ số
bị can bị xử lý về hình sự trong ba năm, từ năm 2007 đến năm 2009


Năm

Số vụ vi phạm Luật
bảo vệ và phát triển
rừng
Số vụ vi phạm về khai
thác, mua bán, vận chuyển
và chế biến lâm sản

Số vụ/ Số bị
can bị xử lý về
hình sự
2007 39.693 25.561 328/332
2008 42.429 26.646 280/221
2009 40.841 27.757 323/207
Tổng cộng 122.963 79.964 931/760
Nguồn: www.kiemlam.org.vn
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm
Trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2009, số vụ phạm tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng bị xét xử sơ thẩm hàng năm có xu hướng tăng so với năm
đầu và tương đối ổn định ở mức cao. Nếu lấy mức độ gia tăng hàng năm về số vụ và số bị cáo
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng của năm 2005 là 100% thì mức
độ gia tăng từng năm của các năm tiếp theo như sau:

Bảng 2.4. Mức độ gia tăng hàng năm của số vụ và số bị cáo phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Năm Số vụ MĐGTHN % Số bị cáo
MĐGTHN %
2005 133 100,00 140 100,00
2006 71 53,38 75 53,57
2007 161 121,05 186 132,85
2008 140 105,26 160 114,28
2009 176 132,33 202 144,28
Nguồn: TANDTC [32]
Ghi chú: MĐGTHN: Mức độ gia tăng hàng năm.
Với số liệu thống kê trên có thể tính tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số vụ và
số bị cáo như sau:
Tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số vụ phạm tội Vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng
4
53,38x121,05x105,26x132,33 = 97,40%
Tốc độ gia tăng trung bình hàng năm về số bị cáo phạm tội Vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
4
53,57x132,85x114,28x144,28 = 104,07%
Từ bảng 2.4 chúng ta có đồ thị thể hiện diễn biến tình hình tội phạm vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng (theo số vụ và số bị cáo trong năm năm từ năm 2005 đến
năm 2009) như sau:
Đồ thị 2.1. Diễn biến tình hình tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
50
100
150
200
250
300
350
400
2005 2006 2007 2008 2009
Số bị cáo
Số vụ

Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
2.1.3. Tính chất của tình hình tội phạm
* Về hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng:
Tỷ lệ số vụ án khai thác rừng trái phép cao hơn nhiều so với tỷ lệ số vụ án vận
chuyển, buôn bán gỗ trái phép.
* Về thủ đoạn của người phạm tội: Dùng tiền hoặc những lợi ích vật chất khác hối lộ
cho các cán bộ kiểm lâm thoái hóa, biến chất để tiếp tay, tổ chức cho bọn lâm tặc khai thác
rừng trái phép; lợi dụng việc được phép khai thác, tận thu, tận dụng gỗ bọn tội phạm đã tổ
chức khai thác trái phép ngoài khu vực tận thu, tận dụng gỗ; lợi dụng việc ký kết hợp đồng
mua bán gỗ giữa cơ quan Nhà nước với các công ty là hợp pháp để bán vượt khối lượng gỗ
cho phép.
* Về địa điểm thực hiện tội phạm: Qua báo cáo của ngành kiểm lâm cho thấy hoạt
động khai thác, vận chuyển và buôn bán gỗ trái phép vẫn diễn ra nhiều ở các tỉnh miền
trung,các tỉnh Tây Nguyên; duyên hải miền trung và các tỉnh miền núi phía bắc.
* Về thời gian thực hiện tội phạm: Tội phạm thường được thực hiện vào ban ngày và
vào mùa khô.
* Về công cụ thực hiện tội phạm: thường là cưa, búa, dao, tời máy, các loại dây cáp
hỗ trợ cho việc chặt hạ cây rừng. Về công cụ, phương tiện vận chuyển thường là các loại xe
đạp thồ, xe trâu bò, công nông, ô tô, máy kéo, thuyền bè v v…
* Nhân thân người phạm tội:
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, các bị cáo phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 2005 đến năm 2009 có đặc điểm nhân thân như
sau:
Bảng 2.5. Đặc điểm nhân thân của bị cáo đã xét xử sơ thẩm trong năm năm, từ
năm 2005 đến năm 2009



Năm
Đặc điểm nhân thân của bị cáo

Tổng
số bị
cáo
Nghề nghiệp Dân tộc Độ tuổi
Làm
ruộng

nghề
tự do
Không
nghề
nghiệp
Cán
bộ,
công
chức
Kinh Thiểu
số
Chưa
thành
niên
Từ
18
đến
50
Trên
50
2005 118 15 7 52 88 2 135 3 140
2006 61 9 5 29 46 2 71 2 75
2007 159 18 9 70 116 4 176 6 186
2008 136 14 10 58 102 3 150 7 160
2009 170 19 13 81 121 6 186 10 202
Tổng 644 75 44 290 473 17 718 28 763
Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
Qua nghiên cứu 100 bản án ngẫu nhiên tác giả có các số liệu thống kê dưới đây về
một số đặc điểm nhân thân khác của bị cáo:
Bảng 2.6. Đặc điểm nhân thân của 115 bị cáo thuộc 100 vụ án vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng

Làm
ruộng

nghề
tự do

Không
nghề
nghiệp

Khôn
g biết
chữ

Văn
hoá
cấp
1

Văn
hoá
cấp
2

Văn
hoá
cấp
3


Nam


Nữ

DT
kinh

DT
thiểu
số

Cán
bộ,
công
chức
95=
82,6%
11=
9,5%
23=
20%
45=
39,1
%
36=
31,3
%
11=
9,56
%
112=
97,3
%
3=
2,6%
35=
30,4
%
80=
69,5%
9=
7,8%
Nguồn: Từ 100 bản án được tác giả sưu tầm từ các Toà án địa phương

Đồ thị số 2.2. Diễn biến tình hình số bị cáo là cán bộ, công chức phạm tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009
0
2
4
6
8
10
12
14
2005 2006 2007 2008 2009

Nguồn: Toà án nhân dân tối cao [32]
2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở Việt
Nam và một số nƣớc trên thế giới
2.2.1. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở Việt
Nam
Một trong những công cụ để phòng, chống tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng có hiệu quả nhất ở Việt Nam hiện nay chính là BLHS năm 1999
Luật bảo vệ và phát triển rừng ngày 03/12/2004; Nghị định số 23/2006/NĐ- CP ngày
03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng; Nghị định số 159/ 2007/
NĐ- CP ngày 30/10/2007 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT/ BNN&PTNT- BTP-
BCA- VKSNDTC- TANDTC; Luật bảo vệ môi trường năm 2005
Những văn bản pháp luật trên đây thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng trong đấu tranh
phòng chống tội phạm về khai thác và bảo vệ rừng.
Chúng ta đã tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến phòng chống tội phạm về
khai thác và bảo vệ rừng như Công ước Palecmo về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia,
Công ước quốc tế về chống tài trợ cho khủng bố năm 1999, Công ước khung về biến đổi khí
hậu của Liên hợp quốc năm 1992.
2.2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở một số
nước trên thế giới
Trung Quốc là một trong những quốc gia rất coi trọng đến công tác bảo vệ và phát
triển rừng, coi bảo vệ và phát triển rừng là một nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước mình. Nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược là khai thác
rừng một cách bền vững, khai thác đi đôi với phát triển và bảo vệ rừng, chính phủ Trung
Quốc đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ thiết thực, trong đó có các biện pháp
pháp lý như quy định và thi hành các chế tài dân sự, hành chính và đặc biệt là tăng cường áp
dụng các biện pháp hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về khai thác và bảo vệ
rừng.
BLHS Liên bang Nga cũng dành hẳn một chương riêng quy định các tội phạm về môi
trường, trong đó có tội liên quan đến khai thác và bảo vệ rừng. Chương 26 BLHS Liên bang
Nga quy định "các tội phạm về sinh thái" gồm 17 điều luật. Trong đó Điều 260 "tội chặt trái
phép cây gỗ và cây bụi", Điều 261 "tội hủy hoại hay làm hư hỏng rừng".
Lào cũng là một trong những quốc gia rất quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ và
phát triển rừng. Điều 128 BLHS Lào quy định: Người nào chặt cây, khai thác rừng không
đúng với quy định của Luật lâm nghiệp như đốt rừng, phá rừng hoặc bằng các hành vi khác
thì bị phạt tù từ ba tháng đến một năm hoặc bồi thường theo quy định của Luật lâm nghiệp.
Inđônêxia cũng là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á rất quan tâm đến công
tác bảo vệ và phát triển rừng cũng như khai thác rừng một cách bền vững. Bằng việc hình sự
hóa những hành vi khai thác rừng bất hợp pháp, hệ thống pháp luật (đặc biệt là luật hình sự)
của quốc gia này đã góp phần tích cực và có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống
loại tội phạm về khai thác và bảo vệ rừng.

Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng luôn có chiều hướng gia
tăng cả về số lượng và mức độ vi phạm.
Công tác quản lý kinh tế còn bộc lộ nhiều thiếu sót, đặc biệt là quản lý kinh tế lâm
nghiệp, quản lý rừng. Cách thức tổ chức và biện pháp quản lý còn nhiều sơ hở, từ đó tạo điều
kiện cho bọn lâm tặc tồn tại, hoạt động. Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng còn chưa đầy đủ và hoàn thiện, do vậy tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng có khả năng bị bỏ lọt cao.
Điều 175 BLHS năm 1999 còn có những điểm chưa được hiểu thống nhất, trong cấu
thành cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng còn có những tình tiết
định lượng, định tính chưa được cụ thể hoá. Đã có văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 175 của
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng việc áp dụng Điều 175 BLHS trên thực tế vẫn
còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Trước yêu cầu đó, việc hoàn thiện pháp luật hình sự về tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và việc đảm bảo tổ chức thực hiện các quy
định này trên thực tế được đặt ra khá cấp thiết.
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
3.2.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
* Về mặt chủ quan của tội phạm: Nghiên cứu Điều 175 BLHS năm 1999 chúng ta
thấy các hành vi khách quan được mô tả trong tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng có thể xảy ra hai hình thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Người phạm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng dù là có lỗi cố ý hay vô ý thì đều bị xử lý như nhau về
cùng điều luật, khung hình phạt và chế tài áp dụng. Điều này thể hiện sự thiếu công bằng và
bất hợp lý trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Để giải quyết tình
trạng bất cập trên đây, có quan điểm cho rằng cấu thành tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng cần được sửa đổi theo hướng tách những hành vi cố ý ra khỏi những
hành vi vô ý và quy định trong các tội phạm độc lập: tội cố ý và tội vô ý, đồng thời có đường
lối xử lý khác nhau phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi
phạm tội. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này.
* Về một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt
Đối với tình tiết "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" và tình
tiết "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" để công tác đấu tranh
phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đạt hiệu quả cao, đồng
thời góp phần tích cực ngăn chặn nạn phá rừng bừa bãi trong tình hình hiện nay, khoản 1
Điều 175 BLHS nên sửa đổi lại theo hướng:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại Điều 189 của Bộ luật này hoặc
đã bị kết án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm….
Một thực tế hiện nay là tất nhiều hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng đã có đầy đủ căn cứ để xử phạt hành chính nhưng các cơ quan chức năng vì nhiều lý do
khác nhau nên đã không phát hiện ra hành vi vi phạm, do vậy không thể tiến hành xử phạt vi
phạm hành chính được. Mà Điều 175 BLHS năm 1999 lại quy định dấu hiệu “đã bị xử phạt
hành chính” là dấu hiệu định tội, nếu việc xử phạt vi phạm hành chính đối với những hành vi
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng không được thực hiện triệt để, kịp thời và
chính xác thì sẽ dẫn đến khả năng bỏ lọt tội phạm cao.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng rất đa dạng, một
người có thể bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần bởi các cơ quan có thẩm quyền khác
nhau, ở nhiều đơn vị hành chính khác nhau nhưng vẫn trong cùng một khoảng thời gian nhất
định. Nếu không có thông tin đầy đủ, công khai, kịp thời về những đối tượng và hành vi vi
phạm giữa các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này thì dễ
dẫn đến tình trạng một người bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần bởi nhiều cơ quan có
thẩm quyền khác nhau nhưng cơ quan nào cũng cho rằng đó là vi phạm hành chính lần đầu và
do vậy, vụ vi phạm đó không bị coi là có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng bỏ lọt tội phạm nên chăng chúng ta cần xây dựng hệ
thống thông tin điện tử trong phạm vi toàn quốc để cập nhật hàng ngày, hàng giờ các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng của các cơ quan có
thẩm quyền khác nhau, từ đó làm cơ sở cho việc xem xét, xử lý các vụ vi phạm pháp luật về
khai thác và bảo vệ rừng có dấu hiệu tội phạm.
Đối với tình tiết định khung hình phạt
Theo khoản 2 Điều 175 BLHS năm 1999 thì mức tối thiểu của khung hình phạt là hai
năm tù và mức tối đa của khung hình phạt lên đến mười năm tù. Rõ ràng việc quy định như
vậy không những không thể hiện được nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự mà còn gây
khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật, là nguyên nhân làm phát sinh những hành vi
tiêu cực, dễ dẫn đến sự tùy tiện khi quyết định hình phạt (xử quá nặng hoặc quá nhẹ).
Khoản 2 quy định phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm, khoản 3 quy định phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười năm năm.
* Về chủ thể của tội phạm
BLHS nên ghi nhận chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, theo đó, cơ quan, tổ
chức cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội “đáng kể” của hành vi và
hình phạt đối với pháp nhân có thể là phạt tiền, giải thể, cấm hoạt động v v…
3.2.2. Hình phạt
Cần nâng giới hạn mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tiền quy định tại khoản 1
và khoản 3 Điều 175 BLHS.
3.3. Hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan đến tội vi phạm các quy định về
khai thác về bảo vệ rừng
Thứ nhất, nên có quy định thống nhất giữa các quy định về xử lý vi phạm hành chính,
truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ rừng.
Thứ hai, quy định cụ thể về quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có liên quan đến một số tội
phạm khác như tội chống người thi hành công vụ, tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có, tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai [34, tr.123]. Hoàn
thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng song song với việc hoàn thiện pháp luật về tội chống người thi hành công vụ, tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai.
Kiến nghị rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật liên quan để kịp thời sửa đổi, bổ
sung, điều chỉnh hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Các văn bản này phải là cơ sở
pháp lý cụ thể, vững chắc đủ thẩm quyền cho hoạt động của các cơ quan chức năng quản lý
và bảo vệ rừng cũng như các cơ quan tư pháp (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) mà không
cần có những văn bản hướng dẫn kèm theo.
3.4. Mô hình lý luận tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Trên cơ sở một số kiến nghị được nêu ra tại mục 3.2 nêu trên có thể nêu ra mô hình
tội khai thác, buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản và tội vi phạm các quy định về bảo vệ
rừng trong BLHS như sau:
Điều 175 (sửa đổi): Tội khai thác, buôn bán, vận chuyển trái phép lâm sản
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị
xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại Điều 189 hoặc tại Điều 189a
của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ mười năm triệu đồng đến bảy mươi triệu đồng, cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
a) Khai thác trái phép cây rừng;
b) Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm.
a) Gây hậu quả nghiêm trọng;
b) Có tổ chức;
c) Phạm tội nhiều lần.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
năm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười lăm triệu đồng đến bảy mươi triệu
đồng (nếu hình phạt chính không phải là phạt tiền).
Điều 189a (bổ sung): Tội vi phạm các quy định về bảo vệ rừng
1. Người nào có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ rừng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại
Điều 175 hoặc tại Điều 189 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng
(nếu hình phạt chính không phải là phạt tiền).

KẾT LUẬN
Từ các kết quả nghiên cứu thu được cho phép đưa ra những kết luận sau:
1. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chính sách bảo
vệ và phát triển rừng, khai thác rừng một cách hiệu quả để vừa đảm bảo được các lợi ích kinh
tế, vừa đảm bảo an ninh sinh thái của con người và chính sách này từng bước được thể chế
hoá thành pháp luật trong đó có pháp luật hình sự.
2. Cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
pháp luật hình sự cũng từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trong BLHS năm 1999,
hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã được tách khỏi hành vi vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng và được quy định thành một tội danh độc lập. Việc
làm này nhằm thực hiện triệt để hơn nguyên tắc cá thể hoá hành vi cũng như cá thể hoá hình
phạt, đồng thời thể hiện thái độ lên án của Nhà nước đối với từng loại tội phạm. Ở nước ta
trong những năm gần đây mặc dù số vụ phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số các vụ phạm tội nói chung nhưng tình trạng
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đang có chiều hướng gia tăng cả
về số vụ và số người phạm tội.

Chuyến đề : Trường học thân thiện


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Chuyến đề : Trường học thân thiện": http://123doc.vn/document/570223-chuyen-de-truong-hoc-than-thien.htm



Trao đổi chuyên đề
i
a- Tập trung các nguồn lực để giảI quyết dứt
điểm những yếu kém về cơ sở vật chất, thiết
bị trường học, tạo điều kiện cho học sinh khi
đến trường được an toàn, thân thiện, vui vẻ.
b- Tăng cường sự tham gia một cách hứng
thú của học sinh trong các hoạt động giáo
dục trong nhà trường và tại cộng đồng, với
thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo.
2. Năm yêu cầu

c- Phát huy học tập chủ động, sáng tạo của
thầy, cô giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới phư
ơng pháp giáo dục trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
d- Huy động và tạo điều kiện để có sự tham
gia hoạt động đa dạng và phong phú của các
tổ chức, cá nhân trong việc giáo dục văn
hoá, truyền thống lịch sử cách mạng cho
học sinh.

Trao đổi chuyên đề
i
e- Phong trào thi đua phải đảm bảo tính tự
giác, không gây áp lực quá tải trong công
việc của nhà trường, điều kiện ở cơ sở. Nội
dung cơ bản của phong trào là do cơ sở tự
chọn, phải hợp với điều kiện của nhà trường,
làm cho chất lượng giáo dục được nâng lên
và có dấu ấn của địa phương một cách mạnh
mẽ.

Trao đổi chuyên đề
i
3. Năm nội dung cụ thể của phong
trào:
a- Xây dựng trường lớp xanh, sạch, đẹp, an
toàn.
b- Dạy và học có hiệu quả, Phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương
giúp các em tự tin trong học tập.
c- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.

Trao đổi chuyên đề
i
d- Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi,
lành mạnh.
e- Học sinh tham gia tim hiểu, chăm sóc và
phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hoá,
cách mạng ở địa phương.

Trao đổi chuyên đề
i
Phát biểu của Phó Thủ Tướng Chính Phủ,
Bộ Trưởng Bộ GD&ĐT, GS. Nguyễn Thiện Nhân

Trao đổi chuyên đề
i

Trao đổi một số việc cụ thể trường tiểu học tế tiêu đã triển khai
xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực
i
i
1- Xây dựng trường lớp xanh - sạch
- đẹp - an toàn.
- Thông qua các giờ lên lớp, qua sinh hoạt
tập thể, qua hoạt động ngoại khoá, qua các
giờ chào cờ đầu tuần thường xuyên giáo
dục ý thức bảo vệ, chăm sóc cây xanh và giữ
gìn vệ sinh trường lớp.
ii. Trao đổi một số việc cụ thể trường tiểu học
tế tiêu đã triển khai xây dựng trường học thân thiện
học sinh tích cực

Trao đổi một số việc cụ thể trường tiểu học tế tiêu đã triển khai
xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực
i
i
- Tăng cường tổ chức cho học sinh trồng cây
và chăm sóc cây, tạo quang cảnh sư phạm.
- Giữ gìn vệ sinh các lớp học, thoáng mát, đủ
ấm về mùa đông, mát về mùa hè, đảm bảo
các tiêu chuẩn về sức khoẻ học đường do bộ
y tế quy định.

Trao đổi một số việc cụ thể trường tiểu học tế tiêu đã triển khai
xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực
i
i
- 100% học sinh được uống nước sạch.
- Trường có khu vệ sinh riêng dành cho giáo
viên và học sinh. Riêng khu vệ sinh của học
sinh chưa đảm bảo diện tích so với yêu cầu.

Đối với tiêu chí này: Trường mới được 4
tuổi dù cây xanh chưa nhiều, chưa xanh
song trong thời gian không xa sẽ đảm bảo
môi trường xanh và trường đ sạch và đẹp.

cai windows


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "cai windows": http://123doc.vn/document/570570-cai-windows.htm


Cho đĩa Windows XP vào trong ổ CD-ROM và khởi động lại máy tính của bạn. Windows sẽ tự
động kiểm tra phần cứng và cấu hình của máy bạn.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x398
và độ lớn là 4KB
Windows bây giờ chuẩn bị cài đặt vào máy bạn.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x399
và độ lớn là 5KB
Bạn nhấn "ENTER" dể bắt đầu quá trình cài đặt.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x396
và độ lớn là 9KB
1
Nếu đồng ý với thông báo của Windows bạn nhấn F8 để tiếp tục còn nếu không đồng ý bạn
nhấn "ESC" để thóat. Nếu bạn không đồng ý, quá trình cài đặt sẽ kết thúc.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 642x397
và độ lớn là 14KB
PART 2
Bây giờ bạn chọn nơi mà bạn muốn cài đặt Win XP. Bạn nhấn "ENTER" để xác nhận phân
vùng mà bạn muốn cài đặt Win.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x396
và độ lớn là 11KB
Bây giò bạn cần phải định dạng (format) ổ cứng, NTFS được khuyến khích sử dụng. Bạn
cũng có thể chọn FAT32. sau đó bạn nhấn ENTER.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x398
và độ lớn là 11KB
2
Ổ cứng sẽ được format.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x398
và độ lớn là 7KB
PART 3
và sau đó Windows sẽ bắt đầu copy những file cần thiết cho quá trình cài đặt.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x397
và độ lớn là 8KB
Windows sẽ nhận cấu hình của Win XP.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 642x398
và độ lớn là 8KB
3
Giờ là lúc để khởi động lại Win XP, bạn nhấn "ENTER" để quá trình xảy ra nhanh chóng nếu
không Windows sẽ tự động khởi động lại sau 15 giây.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 641x397
và độ lớn là 8KB
Khi khởi động lại, màn hình có hiện thông báo nhấn một phím bất kì để khởi động bằng ổ
CD-ROM, bạn đừng làm gì cả hãy để nó trôi qua.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 642x399
và độ lớn là 4KB
4
Windows đang được khởi động.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x478
và độ lớn là 12KB
PART 4
Quá trình cài đặt được tiếp tục.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 635x475
và độ lớn là 57KB
Bây giờ là lựa chọn ngôn ngữ và vùng. Chuột của bạn lúc này đã hoạt động vì thế bạn dùng
chuột nhấn vào "CUSTOMIZE"
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x479
5
và độ lớn là 46KB
Bây giờ bạn chọn định dạng chuẩn khu vực của bạn và nhấn OK.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x477
và độ lớn là 37KB
Bây giờ bạn nhấn vào "DETAILS".
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x479
và độ lớn là 46KB
6
Tiếp đó bạn chọn ngôn ngữ mặc định, và nhấn "OK" khi thóat.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x478
và độ lớn là 42KB
Bây giờ bạn đã có tất cả sự thay đổi cần thiết, bạn nhấn "NEXT".
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x479
và độ lớn là 32KB
7
PART 5
Bây giờ là lúc ghi thông tin cá nhân của bạn. Bạn điền tên và có thể điền thêm nơi công tác,
làm việc. Bạn nhấn "NEXT" khi đã sẵn sàng.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x477
và độ lớn là 29KB
Tiếp đó bạn điền vào khóa sản phẩm. Sau khi điền chính xác xong bạn nhấn NEXT.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x479
và độ lớn là 31KB
Bây giờ bạn đặt tên cho máy tính của bạn và pasword của admin. Xác nhận lại password và
nhấn "NEXT".
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x477
và độ lớn là 44KB
8
Hệ thống giờ và ngày là phần tiếp theo, bạn thay đổi nếu thấy cần thiết, và nhấn "NEXT".
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x478
và độ lớn là 33KB
Windows sẽ tiếp tục được cài đặt ngay sau đó.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x480
và độ lớn là 45KB
PART 6
Nếu card mạng được tìm thấy trong máy của bạn thì bảng sau sẽ hiện ra. Bạn chọn
"TYPICAL SETTINGS" và nhấn NEXT.
9
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x478
và độ lớn là 31KB
Thay đổi tên nhóm làm việc nếu bạn thấy cần thiết và nhấn "NEXT".
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x479
và độ lớn là 39KB
Windows sẽ tiếp tục cài đặt.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 638x479
và độ lớn là 56KB
Quá trình cài đặt kết thúc.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x478
và độ lớn là 59KB
10
Bây giờ là lúc để Windows XP khởi động lại lần nữa, bạn nhấn"ENTER" để quá trình diễn ra
nhanh chóng, mặt khác bạn cũng có thể đợi 15 giây để Windows tự động khởi động lại.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 641x397
và độ lớn là 8KB
Khi khởi động lại sẽ có thông báo nhấn một nút bất kì để máy tính khởi động bằng CD-ROM,
bạn đừng nhấn bất kì nút nào, cứ để mặc cho nó trôi qua.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x399
và độ lớn là 3KB
Windows sẽ tiếp tục được nạp.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x476
và độ lớn là 11KB
11
PART 7
Windows bấy giờ sẽ nhận cấu hình máy tính của bạn. Bạn nhấn OK để tiếp tục.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 640x479
và độ lớn là 10KB
Nếu bạn đồng ý với sự thay đổi bạn nhấn "OK" không thì bạn nhấn "CANCEL" để qấy lại với
cấu hình cũ.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 657x456
và độ lớn là 10KB
Bây giờ WINDOWS sẽ cập nhật thay đổi. Bạn hãy kiên nhấn chờ đợi.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x480
và độ lớn là 19KB
Màn hình WELCOME hiện lên.
Ảnh dưới đây đã được chỉnh sửa kích cỡ. Hãy click vào đây để xem toàn bộ ảnh. Ảnh gốc có kích thước 639x481
và độ lớn là 12KB
và kết thúc là Desktop của Windows XP. Windows đã được cài xong.
12