CHƯƠNG I
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HÀNH VI MUA BÁN, SỬ DỤNG
TRÁI PHÉP HOÁ ĐƠN GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ CÔNG TÁC PHÁT
HIỆN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM MUA BÁN, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP HOÁ
ĐƠN GIÁ TRỊ GIA TĂNG CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
TỘI PHẠM VỀ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHỨC VỤ
1. Hoá đơn Giá trị gia tăng và một số qui định về chế độ quản lý và sử
dụng hoá đơn Giá trị gia tăng
Hoá đơn GTGT là căn cứ pháp lý để xác định cụ thể phạm vi mức độ
nghiệp vụ thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, số thuế GTGT phải nộp vào
ngân sách Nhà nước và số thuế GTGT được hoàn. Với giá trị pháp lý riêng có
này của hoá đơn GTGT, nên không phải bất cứ ai cũng có quyền sử dụng hoá
đơn GTGT. Người được viết hoá đơn GTGT là người cung cấp hàng hoá, dịch
vụ với điều kiện những người cung cấp dịch vụ hàng hoá dịch vụ này có
quyền được thể hiện số thuế GTGT trên hoá đơn; những nghiệp vụ không
nằm trong phạm vi đánh thuế GTGT hoặc được miễn trừ thuế GTGT thì
người cung cấp hàng hoá dịch vụ không được viết trên hoá đơn GTGT, nếu
khi thực hiện nghiệp vụ này mà viết trên hoá đơn số tiền thuế GTGT cho
khách hàng thì người cung cấp hàng hoá, dịch vụ (người nộp thuế) vi phạm
pháp luật thuế GTGT. Điều này có nghĩa rằng, người được sử dụng hoá đơn
GTGT phải đáp ứng đầy đủ những tiêu thức pháp lý nhất định.
Xét về phương diện quản lý Nhà nước, hoá đơn GTGT là văn bản pháp
lý của Nhà nước. Để thực hiện sự quản lý của Nhà nước trên tất cả mọi mặt
hoạt động của xã hội, Nhà nước phải sử dụng những hình thức quản lý nhất
định mà hình thức quản lý cơ bản, chủ yếu mang tính chất pháp lý đó là ra
quyết định quản lý hay nói cách khác là ra các văn bản quản lý.
5
5
Văn bản quản lý Nhà nước là quyết định quản lý thành văn viết do các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành mang tính chất quyền lực Nhà
nước, đơn phương làm phát sinh các hệ quả pháp lý cụ thể.
Hệ thống văn bản quản lý Nhà nước ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Văn bản qui phạm pháp luật được qui định trong luật ban hành văn
bản qui phạm pháp luật.
- Văn bản hành chính thông thường như công văn hành chính, thông
báo, báo cáo, tờ trình, biên bản.
- Văn bản chuyên môn như hoá đơn, chứng từ của ngành tài chính; học
bạ của ngành đào tạo; quyết định kháng nghị của VKSND.
- Văn bản kỹ thuật.
Như vậy hoá đơn GTGT cũng nằm trong hệ thống các văn bản quản lý
của Nhà nước.
- Chương 2 điều 11 Luật thuế GTGT (được sửa đổi, bổ sung năm 2003)
qui định về hoá đơn, chứng từ như sau:
Mục 1: Việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ đều phải có hoá đơn chứng từ
theo qui định của pháp luật.
Mục 2: Các cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
phải sử dụng hoá đơn GTGT và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố qui định,
trong đó ghi rõ giá bán, khoản phụ thu, phí thu thêm, khoản thuế GTGT, giá
thanh toán.
Trong trường hợp hoá đơn không ghi khoản thuế GTGT thì thuế GTGT
được xác định bằng giá thanh toán theo hoá đơn nhân với thuế suất thuế
GTGT.
Mục 4: Cơ sở kinh doanh có hành vi in, phát hành, sử dụng hoá đơn
không đúng qui định để trốn thuế, gian lận trong khấu trừ hoặc hoàn thuế
GTGT, ngoài việc phải truy thu, truy hoàn số tiền thuế gian lận còn bị xử phạt
6
6
vi phạm hành chính về thuế, nếu mức độ vi phạm nghiêm trọng còn phải truy
cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật.
- Chương 2 điều 11 nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003
của Chính phủ qui định chi tiết thi hành luật thuế GTGT và luật sửa đổi, bổ
sung một số điều luật thuế GTGT qui định: Các cơ sở kinh doanh phải thực
hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ theo đúng
qui định của pháp luật. Hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ qui định đối với
các cơ sở kinh doanh như sau:
Mục 1: Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương
pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng
hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố ghi trên hoá
đơn, về giá bán phải ghi rõ: giá bán chưa có thuế, phụ thu và phí tính ngoài
giá bán (nếu có), thuế GTGT, giá thanh toán đã có thuế.
Mục 4: Các cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hoá cho người tiêu
dùng, đối với hàng hoá có giá bán dưới mức qui định phải lập hoá đơn GTGT
hoặc hoá đơn bán hàng, nếu cơ sở không lập hoá đơn thì phải lập bản kê hàng
bán lẻ theo mẫu bản kê của cơ quan thuế để làm căn cứ tính thuế GTGT;
trường hợp người mua yêu cầu lập hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn bán hàng thì
phải lập hoá đơn theo đúng qui định.
Mục 5: Cơ sở kinh doanh có hành vi in, phát hành, sử dụng hoá đơn
không đúng qui định để trốn thuế, gian lận trong khấu trừ hoặc hoàn thuế
GTGT, ngoài việc phải truy thu, truy hoàn số tiền thuế gian lận còn bị xử phạt
vi phạm hành chính về thuế, nếu mức độ vi phạm nghiêm trọng còn phải truy
cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật.
- Thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính
hướng dẫn thi hành nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của
Chính phủ qui định chi tiết thi hành luật thuế GTGT và luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật thuế GTGT. Trong chương IV về hoá đơn chứng từ mua
7
7
bán hàng hoá, dịch vụ qui định: Cơ sở kinh doanh khi mua bán hàng hoá, dịch
vụ phải thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ theo qui định của pháp luật.
Mục 1: Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương
pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ chịu thuế GTGT phải
sử dụng hoá đơn GTGT, kể cả trường hợp bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt (trừ trường hợp được dùng hoá đơn, chứng từ đặc thù ghi giá
thanh toán là giá đã có thuế GTGT).
Mục 4: Hoá đơn, chứng từ hợp pháp là:
+ Hoá đơn do Bộ tài chính (Tổng cục thuế) phát hành do cơ quan thuế
cung cấp cho các cơ sở kinh doanh.
+ Hoá đơn do các cơ sở kinh doanh tự in để sử dụng theo mẫu qui định
và đã được cơ quan thuế chấp nhận cho sử dụng.
+ Các loại hoá đơn, chứng từ đặc thù khác được phép sử dụng.
- Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 7/11/2002 của Chính phủ về việc
in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn.
Điều 3 mục 1: Hoá đơn là chứng từ được in sẵn thành mẫu, in từ máy
tính tiền, in thành vé có mệnh giá theo qui định của Nhà nước, xác nhận khối
lượng, giá trị của hàng hoá, dịch vụ mua, bán, trao đổi, quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên tham gia giao dịch mua, bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
Mục 8: Hoá đơn khống là hoá đơn đã được lập nhưng nội dung giao
dịch là không có thực.
Điều 4: Các hành vi bị cấm
Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân in, phát hành, sử dụng, quản lý, mua,
bán hoá đơn trái với qui định tại nghị định này.
Chương 2 qui định cụ thể việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn.
Trong đó, điều 11 mục 2 điểm a qui định đối với tổ chức, cá nhân sử dụng hoá đơn:
Phải sử dụng hoá đơn theo đúng qui định, không được mua, bán, cho
hoá đơn hoặc dùng hoá đơn của tổ chức, cá nhân khác; không được sử dụng
hoá đơn để kê khai khống thuế, chi phí, thanh toán tài chính;
8
8
- Thông tư số 120/2002/TT-BTC ngày 30/12/2002 của Bộ tài chính
hướng dẫn thi hành nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 7/11/2002 của Chính
phủ về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn.
Chương VI: Qui định cụ thể về việc sử dụng hoá đơn
Chương VII: Qui định cụ thể việc quản lý hoá đơn
Như vậy qua hệ thống văn bản pháp luật về thuế GTGT qui định rất cụ
thể việc mua bán, quản lý và sử dụng hoá đơn GTGT. Việc nắm vững những
văn bản pháp luật này là một trong những yếu tố quan trọng hết sức cần thiết
giúp lực lượng CSKT, CSĐT trước đây. Lực lượng CSĐTTP về TTQLKT và
chức vụ hiện nay, với chức năng nhiệm vụ của mình phòng ngừa điều tra tội
phạm trong lĩnh vực mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng có
hiệu quả hơn.
2. Nhận thức về hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn Gía trị gia
tăng.
Luật thuế GTGT được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 10,
Chủ tịch nước công bố ngày 22/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/1999. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển
trong quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế.
Sau hơn 8 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã từng bước đi vào cuộc sống,
được nhiều doanh nghiệp tự giác thực hiện, làm tăng thu ngân sách, ổn định
thị trường, đảm bảo công bằng quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, đẩy
mạnh sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan Nhà
nước cũng như doanh nghiệp, tạo ra khả năng cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nêu trên, trong thời gian qua nhiều
doanh nghiệp không chấp hành các qui định của Nhà nước trong việc sử dụng
hoá đơn GTGT. Lợi dụng thủ tục, qui định của luật doanh nghiệp thông
thoáng để đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký mã số thuế, mua hoá đơn
9
9
GTGT nhưng không tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục đích là mua bán hoá
đơn GTGT khống lấy tiền, khi bị phát hiện thì tuyên bố giải tán doanh nghiệp,
chuyển, thay đổi địa chỉ giao dịch mà không báo cáo cơ quan chức năng quản
lý Nhà nước.
Lợi dụng sự thông thoáng của luật doanh nghiệp và sơ hở trong công
tác đăng ký doanh nghiệp và công tác hậu kiểm, một số đối tượng nghiện ma
tuý, đối tượng tù tha về, đối tượng trong diện cấm không được kinh doanh các
ngành nghề theo luật định nhưng vẫn được cấp phép thành lập doanh nghiệp
sau đó mua, bán hoá đơn GTGT, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác lừa
đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước; một người thành lập nhiều doanh nghiệp ở
một hoặc hai đến ba địa phương khách nhau hoặc cho người thân (vợ hoặc
chồng con), thậm chí cả những người làm thuê đứng tên làm giám đốc công ty
để mua bán hoá đơn GTGT. Có trường hợp mượn giấy chứng minh nhân dân,
sổ hộ khẩu hoặc thuê người khác, cả lái xe ôm, xe xích lô đứng tên thành lập
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp “ảo” trên thực hiện các thủ đoạn mua hoá đơn
GTGT do Bộ Tài chính phát hành ở chi cục thuế, hoặc từ các đối tượng
buôn bán hoá đơn GTGT, các hoá đơn GTGT này thường chưa ghi nội
dung, sau đó chúng bán lại các hoá đơn GTGT trắng này cho các cá nhân, tổ
chức, các doanh nghiệp có nhưu cầu, để các các nhân , tổ chức , các doanh
nghiệp này sử dụng số hoá dơn GTGT trắng đó lập hồ sơ ghi khống số
lượng, giá trị hàng hoá, thuế GTGT trên các liên nhưng thực tế không có
hang hoá để hợp thức hoá đầu vào chiếm đoạt tiền hoàn thuế lên đến hàng
tỷ đồng. Việc mua bán, sử dụng hoá đơn GTGT trái phép thu lời rất lớn. Do
vậy, đã thúc đẩy các đối tượng thành lập doanh nghiệp chỉ để bán hoá đơn
GTGT và tạo nên thị trường mua bán hoá đơn bất hợp pháp sôi động, hình
thành các tụ điểm chuyên bán hoá đơn và đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu của
người mua.
10
10
Từ những nhận thức trên đúc kết lại tác giả mạnh dan đưa ra định nghĩa
hành vi mua ban hoá đơn giá tri gia tăng là hành vi “Mua đi, bán lại các hoá
đơn trắng không ghi nội dung, hoặc sử dụng trái phép sử dụng hoá đơn
GTGT nhằm thu lợi bất chính , trái với quy định của pháp luật”.
Đối tượng mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn GTGT gồm:
- Công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân.
- Các đối tượng “cò” chuyên móc nối với các công ty trên và số đối
tượng có nhu cầu để mua và bán. ở một số địa phương đã hình thành các
đường dây tổ chức mua bán hoá đơn.
- Đối tượng mua bán hoá đơn chủ yếu là các công ty TNHH và một số
DNNN.
3. Đặc điểm pháp lý của các tội phạm trong lĩnh vực mua bán, sử dụng
trái phép hoá đơn Giá Trị Gia Tăng và một số văn bản có liên quan.
Về khách thể của tội phạm: Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến quan
hệ sở hữu, cụ thể là xâm phạm sở hữu Nhà nước, xâm phạm chính sách quản
lý tài chính làm cho một số lượng tiền lớn của Nhà nước bị chiếm đoạt do
hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng. Đồng thời xâm
phạm đến chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế- tài
chính và xâm phạm đến hoạt động đúng đắn trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ ảnh hưởng xấu làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mặt khách quan của tội phạm: Là hành vi trái pháp luật của chủ thể
pháp luật, nó được thể hiện ở hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá
trị gia tăng. Tính trái pháp luật của tội phạm mua bán, sử dụng trái phép hoá
đơn giá trị gia tăng được thể hiện ở hành vi cụ thể đó là thành lập doanh
nghiệp nhưng không tổ chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ như đã đăng ký
trong giấy phép đăng ký kinh doanh mà mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn
11
11
giá trị gia tăng để kiếm lời đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác
chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp,
mục đích là chiếm đoạt tiền Nhà nước với động cơ vụ lợi. Người phạm tội
nhận thức rõ hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng của
mình để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn
thực hiện, mong muốn hậu quả xảy ra nhằm thoả mãn mục đích của mình.
Đối với loại tội phạm này khi thực hiện tội phạm thường có tính toán kỹ
lưỡng, tổ chức chặt chẽ và có nhiều người tham gia thực hiện tội phạm.
Chủ thể của tội phạm: Ngoài những qui định chung do luật hình sự qui
định (năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo qui định thì hành vi
mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng thông thường do những
người có hiểu biết về nghiệp vụ quản lý kinh tế - tài chính, có trách nhiệm,
quyền hạn trong các doanh nghiệp) và thậm chí là những người không có
công việc ổn định chỉ sống dựa vào nguồn thu nhậm do buôn bán trái phép
hoá đơn GTGT mang lại .
Do hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng chưa
được qui định cụ thể thành tội danh trong Bộ luật hình sự, vì vậy trong việc
áp dụng điều luật để xử lý đối với loại tội phạm này có nhiều sự khác nhau ở
các đơn vị, địa phương chưa có sự thống nhất. Trước tình hình đó liên ngành
tư pháp Trung ương đã ký ban hành thông tư số 21 để thống nhất hướng dẫn
điều tra, truy tố, xét xử loại hành vi này. Đây là thuận lợi rất lớn cho quá trình
thực thi pháp luật về đấu tranh phòng chống, kiềm chế loại tội phạm này; giải
quyết được những bất cập, bức xúc, khó khăn vướng mắc, lúng túng ở các
đơn vị và địa phương.
Theo thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA–TANDTC– VKSNDTC
- BTP ngày 23/11/2004 giữa Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp về hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm
12
12
hình sự đối với các hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia
tăng như sau:
Mục 1 qui định: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi
mua và sử dụng trái phép hóa đơn GTGT.
Tiểu mục 1.1: Người nào có hành vi mua hoá đơn GTGT và sử dụng
trái phép hoá đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT
thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
“ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điều 139 của Bộ luật hình sự:
a. Tiền hoàn thuế GTGT từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
b. Tiền hoàn thuế GTGT dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã
bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Tiểu mục 1.2: Người nào mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên, nhiên vật liệu, vật tư,
hàng hoá, chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác thì việc truy
cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Nếu là người có chức vụ, tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng
lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tiền của cơ quan, tổ chức mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội tham ô tài
sản” theo điều 278 của Bộ luật hình sự:
a.1. Tiền bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
a.2. Tiền bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã
bị kết án về một trong các tội qui định tại mục A chương XXI của Bộ luật
hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
13
13
b. Nếu là người khác, không thuộc trường hợp được hướng dẫn tại
điểm a tiểu mục 1.2 mục 1 này mà tiền chiếm đoạt thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo điều 139 Bộ luật hình sự:
b.1. Tiến chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
b.2. Tiền chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết
án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Tiểu mục 1.3. Người nào có hành vi mua hoá đơn GTGT và sử dụng
trái phép hoá đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép
hàng hoá thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Nếu chứng minh được là hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua
biên giới mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về “tội buôn lậu” theo điều 153 của Bộ luật hình sự:
a.1. Hàng hoá có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên;
a.2. Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt
hành chính về hành vi qui định tại điều 153 hoặc tại một trong các điều 154,
155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về
một trong các hành vi này, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nếu
không thuộc trường hợp qui định tại các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232,
236 và 238 của Bộ luật hình sự.
b. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá
qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa), mà thuộc một trong các trường hợp
sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội trốn thuế” theo điều 161
của Bộ luật hình sự:
b.1. Tiền trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên;
b.2. Tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt
hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về
14
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét