đầu tư và khiến cho thị trường tài chính nội địa hoạt động hìệu quả hơn. Tính
bất ổn định còn chỉ ra rằng thị trường đang tìm kiếm những hình thức phân bổ
vốn tốt nhất cho những cơ hội kinh tế hiện hành. Tuy vậy, nếu điều này xảy ra
thường xuyên và với mức độ lớn, những tác động tiêu cực tới hệ thống tài
chính nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ xuất hiện. Hơn thế nữa, tính thanh
khoản cao cùng với tính bất ổn định của FII còn có thể dẫn đến tình trạng rút
vốn ồ ạt khi có sự thay đổi trong quan niệm của giới đầu tư hoặc của các điều
kiện kinh tế bên trong cũng như bên ngoài.
1.2.3 Hình thức biểu hiện đa dạng
Ngoài các đặc điểm kể trên, vốn FII còn có đặc tính là tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau và rất phức tạp như tráI phiếu cổ phiếu, giấy nợ
thương mại hoặc dưới hình dạng các công cụ pháI sinh: có kỳ hạn, tương lai,
quyền chọn…
1.3.So sánh FII và FDI
1.3.1 Những điểm khác biệt
• Về mục đích và dự tính đầu tư: trong khi FDI được thực hiện với mục
đích kiểm soát, quản lý quá trình sản xuất vàkinh doanh thực tế và kỳ
vọng của các nhà đầu tư trực tiếp là thu được lợi nhuận trong trung và
dài hạn, thì FII được thực hiện không nhằm mục đích kiểm soát quá
trình sản xuất và kinh doanh thực tế, nhà đầu tư gián tiếp chỉ quan tâm
tới việc đầu tư vào những nơI có thể đưa lại cho họ tỷ suất lợi tức cao
nhất với một mức rủi ro nhất định hoặc một mức tỷ suất lợi tức nhất
định với một mức rủi ro thấp nhất
• Về hình thức và thời hạn đầu tư: Do được đầu tư nhằm kiểm soát và
quản lý quá trình sản xuất và kinh doanh thực tế nên FDI mang tính dài
hạn, ổn định và khó bị đảo ngược. Trong khi đó, do chỉ quan tâm đến tỷ
suất lợi tức hoặc độ an toàn của chứng khoán nên FII mang tính ngắn
hạn, bất ổn định và dễ bị đảo ngược
• Về yêu cầu đặt ra đối với nước nhận đầu tư: FDI đặt ra nhiều yêu cầu
đối với chế độ đầu tư của khu vực kinh tế thực, trong khi đó FII đặt ra
nhiêù yêu cầu hơn đối với sự phát triển và quản lý đối với thị trường tài
chính như hệ thống kiểm toán, kế toán và tính minh bạch của thị trường
• Về lợi ích và những rủi ro tiềm tàng mà những hình thức đầu tư này
đem lại: Trong khi những lợi ích tiềm tàng mà FDI mang đến cho nên
kinh tế của các nước tiếp nhận chủ yếu tập chung ở việc phát triển kinh
tế thực thì những lợi ích tiềm tàng của FII lại chủ yếu tập chung ở việc
thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Hơn thế nữa, khác với
FDI, không phảI bất kỳ hình thức FII nào cũng đưa lại nguồn vốn mới
hay tạo ra những đầu tư mới. Việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu mới
sẽ đưa lại nguồn vốn nhưng việc mua cổ phiếu và tráI phiếu bởi các nhà
đầu tư nước ngoài trên thị trường thứ cấp không nhất thiết thúc đẩy đầu
tư hay làm tăng dòng vốn nước ngoài vào trong nứơc, thậm chí còn làm
giảm tiết kiệm nội địa
1.3.2Những điểm tương đồng và liên kết
Mặc dù có nhiều điểm khác biệt nhưng FDI và FII vẫn có những điểm
tương đồng và có thể bổ sung cho nhau
• Thứ nhất,cả hai hình thức đầu tư nước ngoài này bổ sung thêm cho
nguồn vốn đầu tư, bên cạnh nguồn vốn có được từ tiết kiệm nội địa, cả
hai đều thúc đẩy đầu tư và hoạt động kinh tế của các nước tiếp nhận và
cho phép nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng cao, vốn không thể đạt
được nếu không có sự bổ sung của hai hình thức vốn này
• Thứ hai, có những lĩnh vực mà ranh giới giữa FDI và FII là không rỗ
ràng hay nói cách khác có những lĩnh vực mà cả hai hình thức đâu tư
này hoà quyện vào nhau chẳng hạn các nhà đầu tư gián tiếp có thể hoạt
động tích cực trên thị trường cổ phiếu nhưng việc nắm gĩư cổ phiếu lại
là một trong những đặc trưng cơ bản của đầu tư trực tiếp
• Thứ ba, một hình thức đầu tư tốt,thông qua đó là FII và FDI liên kết với
nhau là khi cả hai hình thức đầu tư này cùng được sử dụng. Các nhà
đầu tư trực tiếp tham gia đầu tư gián tiếp khi họ quản lý dòng tiền của
mình. Chẳng hạn, nhà quản lý tài chính của một dây chuyền bán lẻ lớn
sẽ liên tục ra vào thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn khi anh ta
quản lý tiền mặt và các tài sản tài chính khác trong kinh doanh. Bất kỳ
một hình thức đầu tư trực tiếp cổ điển nào cũng đều có những chức
năng tài chính tương tự và là những nhà đầu tư gián tiếp
6
Trong nhiều trường hợp sẽ không có sự phân biệt rõ ràng giữa đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp mà tồn tại giao thoa và liên kết giữa chúng.Ơ mức
độ nào thì đầu tư gián tiếp trở thành đầu tư trực tiếp. Như vậy, đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp có liên kết chặt chẽ với nhau với việc hình thức đầu tư này
hoạt động tiếp theo sau hình thức đầu tư kia trong một giới hạn nhất định.
Những nhân tố tác động tới hình thức đầu tư này cũng sẽ tác động tới hình
thức đầu tư kia. Mặc dù các cách tiếp cận chính sách có thể tính đến sự khác
biệt lớn giữa chúng nhưng những chính sách tự do hoá một hình thức đầu tư
còn lại sẽ có tác động tiêu cực tới cả hai.
2. Tác động của nguồn vốn đầu tư gián tiêp đối với các nước đang phát
triển
2.1 Những tác động tích cực
2.1.1 FII góp phần làm tăng vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm
chi phí vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro: nếu vốn FII được sử dụng để
tài trợ cho các hoạt động đầu tư mới thì đây sẽ là nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho nguồn vốn nội địa mà các nước đang phát triển đang có nhu cầu
mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng và đang phát triển kinh tế. Ngoài ra, FII còn
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội chia sẻ rủi ro của mình với các
nhà đầu tư nội địa.FII sẽ khiến cho thị trường vốn nội địa trở nên có tính
thanh khoản cao hơn và theo đó là việc đa dạng hoá rủi ro sẽ trở nên dễ dàng
hơn, vỡi kết quả là nguồn vốn sẽ dồi dào hơn và các chi phí vốn đối với các
công ty sẽ giảm
2.1.2 FII thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội đia: vốn FII
thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa thông qua các kênh khác
nhau
• Cùng với sự xuất hiện của đầu tư gián tiếp nước ngoài, thị trường tài
chính nội địa sẽ hoạt động có hiệu quả hơn do có tính thanh khoản cao
hơn.Khi thị trường có tính thanh khoản cao hơn, rộng hơn thì một loạt
các dự án đầu tư khác sẽ được tài trợ. Chẳng hạn, những công ty mới
sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc thu hút được nguồn vốn tài trợ ban đầu.
Người tiết kiệm sẽ có nhiều cơ hội đầu tư hơn với niềm tin rằng họ có
thể quản lý được danh mục đầu tư của họ hoặc có thể bán chứng khoán
đI rất nhanh mỗi khi họ cần đến nguồn tiết kiệm của mình. Bằng cách
đó, những thị trường cố tính thanh khoản cao sẽ khiến cho đầu tư dài
hạn trở nên có sức thu hút hơn
• FII còn thúc đẩy sự phát triển của các thị trường cổ phiếu cũng như
quyền biểu quyết của các cổ đông trong quá trình điều hành công ty.
Một khi các công ty cạnh tranh nhau về nguồn vốn tài trợ, thị trường sẽ
ban thưởng cho những công ty có hiệu quả tốt hơn, có triển vọng tốt
hơn về hiệu quả và có trình độ điều hành công ty tốt hơn. Một khi tính
thanh khoản cũng như hoạt động của thị trường được cảI tiến, cổ phiếu
sẽ ngày càng phản ánh giá trị của công ty và điều đó sẽ thúc đẩy sự
phân bổ vốn một cách hiệu quả. Những giá trị cổ phiếu hoạt động tốt
hơn sẽ khuyến khích mua lại và đây chính là giao điểm giữa đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp. Mua lại có thể khiến cho một công ty kinh
doanh kém hiệu quả trở nên có hiệu quả và có lợi tức cao hơn. Mua lại
cũng còn khiến cho công ty trở nên vững mạnh hơn và đem lại lợi tức
cho nhà đầu tư cũng như cho nền kinh tế nội địa
• Sự hiện diện của các nhà đầu tư thể chế nước ngoài sẽ giúp cho các thể
chế tài chính trong nước có cơ hội tiếp cận các thị trường vốn quốc tế;
áp dụng các công cụ và kỹ thuật tài chính mới như tương lai, quyền
chọn, hoán đổi hoặc các công cụ bảo hiểm khác;cảI tiến các khuôn khổ
giám sát và điều tiết…với kết quả là khả năng quản lý rủi ro của cả các
nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư nội địa sẽ được tăng cường và
sức cạnh tranh của các thể chế tài chính nội địa sẽ được nâng cao
• FII giúp tăng cường tính kỷ luật đối với các thị trường vốn nội địa.
Thực vậy, với một thị trường rộng hơn, các nhà đầu tư sẽ có được
những khuyến khích mạnh hơn trong việc mở rộng nguồn lực để tìm
kiếm những cơ hội đầu tư mới hay đang xuất hiện. Một khi các công ty
cạnh tranh nhau về nguồn tài trợ họ sẽ buộc phảI đối mặt với nhu cầu
về khối lượng và chất lượng thông tin tốt hơn. Sức ép về tính công khai
đầy đủ sẽ thúc đẩy tính minh bạch và điều này sẽ có tác động lan toả
tích cực tới các khu vực khác của nền kinh tế. Do không có lợi thế về
những thông tin nội bộ về các cơ hội đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài
sẽ đặc biệt yêu cầu một mức độ công khai hoá cao hơn, những chuẩn
8
mực kế toán cao hơn và mang theo những kinh nghiệm của họ trong
việc thực hiện các chuẩn mực này
Cạnh tranh trong việc cung cấp nguồn tài trợ hay các dịch vụ tài chính
cũng như trong việc nhận được nguồn tài trợ hay các dịch vụ tài chính sẽ buộc
các thể chế tài chính nội địa và các công ty nội địa phảI áp dụng những chuẩn
mực kế toán quốc tế, thực hiện minh bạch hoá thông tin và cảI tiến các hình
thức quản lý…Điều này sẽ khiến cho thị trường tài chính nội địa hoạt động có
kỷ luật hơn và có khả năng cạnh tranh cao hơn do giảm thiểu được những
hiệu ứng bất lợi như sự lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.Kết quả là người
tiêu dùng sẽ có được các dịch vụ tài chính với chất lượng cao hơn và chi phí
thấp hơn
2.1.3 FII thúc đẩy cảI cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính
sách của chính phủ: tính bất ổn định và dễ bị đảo ngược của vốn FII sẽ buộc
các chính phủ phảI thực hiện những chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh nhằm
giảm thâm hụt ngân sách, giảm lạm phát, giảm sự mất cân đối bên ngoài…
cũng như các chính sách kinh tế thân thiện với thị trường nói chung và các
nhà đầu tư nước ngoài nói riêng
Như vậy, thông qua các kênh khác nhau, đầu tư gián tiếp nước ngoài
có thể bổ sung thêm nguồn vốn cho nền kinh tế cũng như thúc đẩy việc củng
cố và cảI thiện hoạt động của các thị trường vốn nội địa. Điều này sẽ khiến
cho vốn và các nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ tốt hơn; tạo cơ hội
đa dạng hoá danh mục đầu tư, cảI thiện khả năng quản lý rủi ro, thúc đẩy sự
gia tăng của tiết kiệm và đầu tư với kết quả là nền kinh tế sẽ trở nên vững
mạnh hơn và tăng trưởng kinh tế sẽ được thúc đẩy
2.2 Những tác động tiêu cực
2.2.1 Sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn FII sẽ khiến cho nền kinh tế
dễ rơI vào tình trạng phát triển quá nóng(kinh tế bong bóng) với những đặc
trưng cơ bản là tỷ giá hối đoáI danh nghĩa hoặc lạm phát gia tăng. LãI suất
giảm do co sự gia tăng của mức cung tiền sẽ khiến cho nhu cầu nội địa gia
tăng và đồng tiền lên giá lên giá thực tế. Đến lượt mình, sự lên giá thực tế của
đồng tiền nội địa sẽ thúc đẩy sự phát triển của khu vực sản xuất hàng hoá phi
thương mại và hạn chế sự phát triển của khu vực sản xuất hàng hoá thương
mại. Hậu quả là cán cân tài khoản vãng lai sẽ bị xấu đI do khả năng cạnh
tranh của hàng hoá và dịch vụ trong nước giảm, nợ nước ngoài sẽ gia tăng.
Nói cách khác, nền kinh tế sẽ bị rơI vào tình trạng phát triển quá nóng, dễ bị
tổn thương và sẽ rơI vào khủng hoảng một khi gặp phảI các cú sốc bên trong
cũng như bên ngoài, hoặc khi dòng vốn đảo ngược mạnh
Có một điểm đáng lưu ý là những tác động kể trên của vốn FII đối với
nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào việc dòng vốn thu hút được được sử dụng như
thế nào và vốn đố được thu hút trên thị trường nội địa hay sử dụng để tài trợ
cho đầu tư mới thì tác động của nó tới nền kinh tế cũng giống như tác động
của FDI. Nếu vốn đó được dùng để trả nợ, áp lực đối với hệ thống ngân hàng
sẽ giảm và dự trữ ngoại tệ sẽ gia tăng. Nếu vốn đó được đầu tư vào thị trường
vốn nội địa hay được gửi vào hệ thống ngân hàng, cung tiền nội địa và tín
dụng sẽ gia tăng, kéo theo sự gia tăng của nhu cầu về tài sản.Nếu vốn được sử
dụng để chi tiêu, tổng cầu sẽ tăng, kéo theo sự gia tăng sản lượng và lạm phát.
Tất cả những điều đó sẽ khiến cho đồng tiền lên giá thực tế, lãI suất giảm và
giá cả tài sản nội địa gia tăng với những hậu quả đối với nền kinh tế
Sự thu hút vốn FII trên thị trường quốc tế sẽ ít có những tác động bất
ổn định đối với thị trường tài chính nội địa. Bởi vì việc kinh doanh chứng
khoán tiếp theo sẽ diễn ra trên thị trường nước ngoài không ảnh hưởng tới sự
di chuyển tiếp theo của vốn.Tuy vậy, việc tiếp cận ổn định thị trường vốn
quốc tế lại phụ thuộc vào đánh giá tích cực của các nhà đầu tư đối với tính
thanh khoản của các chứng khoán của người vay nợ cũng như sự tuân thủ của
người vay nợ đối với các nguyên tắc của thị trường. Nếu giá cả chứng khoán
bất ổn định trên thị trường quốc tế, việc phát hành mới sẽ khó có thể thực hiện
được
2.2.2 Sự di chuyển quá mức của dòng vốn FII sẽ khiến cho hệ thống tài
chính trong nước dễ rơI vào khủng hoảng một khi gặp phảI các cú sốc từ bên
trong cũng như bên ngoài nền kinh tế
Nếu khu vực tài chính nội địa không có khả năng đương đầu với sự
di chuyển của vốn hoặc không được điều tiết, giám sát thận trọng, sự đảo
ngược mạnh của dòng vốn FII sẽ dẫn tới khủng hoảng
Tuy nhiên, khủng hoảng còn có thể xảy ra mà không liên quan gì đến
các nền tảng cơ bản của nền kinh tế như dưới tác động của sự không hoàn hảo
của thị trường vốn quốc tế, những thay đổi bên ngoài và hiệu ứng lây lan
10
2.2.3 FII làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá : Điều
này xảy ra bởi vì cùng với quá trình tự do hoá tài khoản vốn, ngân hàng trung
ương của các nứơc chỉ có thể thực hiện được một trong hai mục tiêu còn lại:
sự độc lập của chính sách tiền tệ hay sự độc lập của chính sách tỷ giá hối
đoái. Trong điều kiện tự do di chuyển của vốn, nếu ngân hàng trung ương
muốn duy trì chính sách tiền tệ độc lập thì họ buộc phảI thả nổi tỷ giá và
ngược lại, nếu họ muốn cố định tỷ giá thì buộc phảI từ bỏ chính sách tiền tệ
độc lập. Việc không tuân thủ nguyên tắc này sẽ khiến cho các chính sách kinh
tế vĩ mô trở nên trái ngược nhau và đưa đến những hậu quả tiêu cực cho nền
kinh tế
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FII
3.1 Những nhân tố mang tính quốc gia
- Các nền tảng kinh tế cơ bản:hệ thống tài chính-ngân hàng mạnh,hoạt
động hiệu quả;công nghiệp dịch vụ phát triển;có lượng tích luỹ cao và
có tỉ lệ dự trữ ngoại tệ lớn.Sự biến động bên ngoài không tác động
nhiều tới nền kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế tiềm năng:nguồn vốn FII có xu hướng đầu tư tăng
vào các nước đang phát triển nhiều hơn do các nước phát triển đã khai
thác gần hết khả năng của mình ,tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp,làm
cho nhà đầu tư thu được ít lợi nhuận hơn.Các nước đang phát triển cần
vốn cho phát triển kinh tế,có tốc độ tăng trưởng cao ,lợi nhuận thu được
lớn cho nên dòng vốn đổ vào nhiều.
- Sự ổn định chính trị:Một quốc gia có chính trị ổn định luôn thu hút nhà
đầu tư hơn là một quốc gia có chính trị bất ổn.Quốc gia có chính trị ổn
định đảm bảo cho nhà đầu tư thu được cả gốc và lãi,còn bất ổn đầu tư
không an tâm,dễ gặp rủi ro.
- Sự điều tiết thị trường:Thị trường tự điều tiết là chính.Các nhà đầu tư
lớn thích thị trường tự điều tiết do đó họ có thể đầu cơ làm khuynh đảo
thị trường.Song chính phủ các quốc gia tiếp nhận đầu tư hay đầu tư
không bao giờ chấp nhận điều này.Họ phải can thiệp để đảm bảo cho
nền kinh tế tăng trưởng ổn định,cải thiện đời sống nhân dân nước đó.
- Lãi suất nội địa:Lãi suất nội địa của các nước đang phát triển thường
cao hơn so với các nước phát triển và so với thế giới.Điều này làm cho
nguồn vốn từ bên ngoài chảy vào các nước đang phát triển để cho
nguồn vốn sử dụng tốt hơn,thu được nhiều lợi nhuận hơn.Vấn đề này
đã được chứng minh vào những năm 90 khi mà nguồn vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài dồn dập vào thị trường châu á.Đây là qui luật tất yếu
của thị trường vốn:vốn tự điều chỉnh về nơi có hiệu quả kinh tế cao.
- Sự điều tiết ngoại hối:đây là nhân tố quan trọng để thu hút và điều tiết
sự di chuyển của vốn FII,đồng thời hạn chế rủi ro cho nền kinh tế.Dòng
vốn FII được di chuyển tự do sẽ làm cho lượng ngoại tệ cũng di chuyển
tự do.Ngoại tệ không được quản lí chặt sẽ làm khủng hoảng thị trường
tài chính.Nhưng tăng dự trữ ngoại tệ cũng là một biện pháp để hạn chế
rủi ro.
- Rủi ro tỷ giá:Ngân hàng trung ương của các nước tiếp nhận vốn muốn
duy trì chính sách tiền tệ độc lập thì phải thả nổi tỷ giá hối đoái và
ngược lại.Vốn FII là nguồn vốn vào theo sự phát triển của thị trường
chứng khoán- thị trường cao cấp nhất,do đó theo đó là sự rủi ro của tỷ
giá.Nhiều vốn FII cùng với sự kiểm soát không chặt chẽ vào ra làm cho
đồng nội tệ mất giá.
3.2 Những nhân tố mang tính thị trường
• Sự phong phú của các loại chứng khoán với chất lượng khác nhau:Thị
trường có nhiều loại hàng hoá làm cho sự lựa chọn được nhiều hơn.Các
nước đang phát triển hiện nay phát triển thị trường vốn cho nên có
nhiều loại chứng khoán hơn các nước phát triển khi mà đã ổn định.
• Tính thanh khoản của thị trường:đó là khả năng chuyển đổi sang tiền
mặt của tài sản nói chung và chứng khoán nói riêng.Nhà đầu tư không
chỉcó nhu cầu mua mà còn có nhu cầu bán ra.Nếu thị trường không có
tính thanh khoản cao thì sẽ hạn chế nhà đầu tư.Họ sẽ ngại khi mà muốn
bán lại phải chuyển qua một trung gian khác.Đây là hạn chế lớn của thị
trường chứng khoán ở các nước đang phát triển.
• Chất lượng của nghiên cứu thị trường:đánh giá hiệu quả hoạt động của
nền kinhtế,của thị trường tài chính,tính minh bạch công khai của thị
trường.Qua chất lượng nghiên cứu thị trường cũng đánh giá,dự báo
được rủi ro cho nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
12
• Tỷ số giá cả/thu nhập(P/E):đây là một trong những tỉ số đánh giá được
mức cổ tức tiềm năng cũng như rủi ro mà nhà đầu tư nhận được
• Mức vốn hoá thị trường:Mức vốn hoá thị trường cao thì tốt hơn,sẽ hấp
dẫn nhà đầu tư lớn.Còn nhỏ thì chỉ hấp dẫn ngắn hạn,nhỏ lẻ.
• Mức độ công khai của các công ty trong các báo cáo hàng năm:Một
nhà đầu tư chiến lược,lâu dài và khôn ngoan không bao giờ đầu tư vào
những nơi không có tính minh bạch công khai các thông tin cao.Họ bỏ
ra một lượng vốn lớn để đầu tư dài hạn thu được lợi nhuận lớn lâu dài
chứ không phải là ngắn hạn,cỏn con.Do đó các quốc gia muốn phát
triển thị trường vốn cần phải minh bạch hơn các báo cáo tài chính của
công ty mình.
• Sự phong phú của các công cụ thị trường:Công cụ thị trường càng
phong phú càng nhiều nhà đầu tư ở nhiều quốc gia.Nói chung họ có
nhiều sự lựa chọn hơn.
• Hệ thống thanh khoản giao dịch:nhanh và tiện là điều mà nhà đầu tư
mong muốn.
• Chi phí giao dịch:thấp làm cho lợi nhuận mà nhà đầu tư có cao.
• Chính sách cổ tức của các công ty:Vấn đề mà bất cứ nhà đầu tư nào
cũng quan tâm.Các công ty có chính sách cổ tức rõ ràng,ưu đãi thu hút
nhà đầu tư hơn.
1.4. Vai trò của nguồn vốn FII đối với quá trình công nghiệp hoá -hiện
đại hoá.
Như chúng ta đã biết Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,dịch vụ và quản lí kinh tế xã hội
từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ,phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện
đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học kĩ thuật hiện
đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Do sự biến đổi của nền kinh tế thế giới cùng với xu hướng toàn cầu hoá
nền kinh tế với điều kiện kinh tế đất nước,công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn
với quá trình hiện đại hoá.Bởi vì trên thế giới đang diễn ra một cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại,một số nước phát triển đã chuyển từ
kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức,nên phải tranh thủ ứng dụng những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,tiếp cận kinh tế tri thức
để hiện đại hoá những ngành những khâu,những lĩnh vực có điều kiện nhảy
vọt.
Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta là đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và căn bản trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Để làm được điều này, Đảng và nhà nước đã xây dựng
cả một kế hoạch thực hiện đồng thời đưa ra các yếu tố cần thiết cho quá trình
này.Sau đây là nội dung của quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa ở Việt
Nam.
1.4.1. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá,hiện đại hoá trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-Phát triển lực lượng sản xuất-cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội-
trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng thành tựu khoa
học công nghệ hiện đại.Sở dĩ vậy vì công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình
chuyển biến lao động thủ công lạc hậu sang lao động sử dụng máy móc thiết
bị.Trong giai đọan hiện nay thì khoa học công nghệ phát triển cần áp dụng
vào sản xuất.
-Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và hợp lí.Cơ cấu kinh tế
hiện đại,hợp lí là:
+Nông nghiệp phải giảm dần về tỉ trọng;công nghiệp,xây dựng,dịch vụ
phảI tăng dần về tỉ trọng.Mục tiêu của nước ta phấn đấu đến năm 2010 là tỷ
trọng GDP của nông nghiệp 16-17%;công nghiệp 40-41%;dịch vụ 42-43%.
+Trình độ kĩ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ,phù hợp với xu
hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão
trên thế giới.
+Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước,của các
ngành,các địa phương,các thành phần kinh tế.
+Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu
hoá kinh tế,do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
-Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở lựclượng sản xuất phát
triển phù hợp với quan hệ sản xuất.Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét