Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Hội nhập kinh tế quốc tế

Chơng I
Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
1. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá.
Ngày nay, cụm từ "toàn cầu hoá" không còn xa lạ đối với chúng ta đặc biệt
là giới tri thức trẻ và những ngời quan tâm đến các vấn đề của thế giới. Tuy nhiên
có rất nhiều cách nhìn nhận về toàn cầu hoá. ở nét khái quát nhất, tổ chức OECD
(Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) đã coi toàn cầu hoá là quá trình mở rộng
tới "một hoạt vấn đề cũng mang lại sự đổi thay cho nền chính trị và kinh tế ngày
nay trên quy mô toàn cầu". Đó là các vấn đề: Khả năng có thể tồn tại của hệ thống
thơng mại thế giới, nhu cầu ngày càng tăng của sự hội nhập có "chiều sâu" về
chính sách quốc tế và sự giám sát rõ ràng tính độc lập tự chủ trong chính sách kinh
tế quốc gia; sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ; tầm quan trọng của sự
đổi thay trong các hệ thống quản lý các tập đoàn Công ty lớn, hay trong hệ thống
tổ chức công nghệ hoá là cơ sở cho sức cạnh tranh của các nớc, các Công ty; sự đa
dạng hoá ngày càng tăng giữa các nớc phát triển, nạn đói nghèo và nguy cơ một tỷ
lệ lớn dân số trên trái đất bị loại trừ; những vấn đề nghiêm trọng về nạn thất
nghiệp và những khác biệt về tiền lơng về mức thu nhập đang ngày càng tăng lên ở
những nớc phát triển nhất, sự thay đổi của vai trò Chính phủ
Để có cái nhìn rõ ràng hơn ta có thể hiểu quá trình toàn cầu hoá bao gồm:
Thứ nhất: là sự gia tăng mạnh mẽ, vợt khỏi các đờng biên giới quốc gia tới
quy mô quốc tế, của các luồng giao lu hàng hoá, dịch vụ thơng mại, đầu t, tài
chính, công nghệ, công nghệ nhân lực.
Thứ hai là: sự hình thành và phát triển các thị trờng thống nhất trên phạm vi
toàn cầu và khu vực, cũng nh sự hình thành và phát triển các định chế và các cơ
chế điều tiết quốc tế để quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.
Thực tế không phải bây giớ toàn cầu hoá mới bắt đầu hình thành và phát
triển, mà nó đã có tiền đề từ rất lâu trong lịch sử. Có ngời cho rằng những tiền đề
này đã có từ thời kỳ mở đầu của chủ nghĩa t bản, trên cơ sở quá trình xã hội hoá
5
của lực lợng sản xuất trên qui mô thế giới. Chính vì thế phải khẳng định lại rằng
toàn cầu hoá là một quá trình. Hơn nữa, đây là một xu thế khách quan là quy luật
tất yếu trong sự phát triển của xã hội loài ngời. Khẳng định trên dựa vào những
căn cứ, cơ sở thực tế sau:
1.2. Tất yếu của toàn cầu hoá:
Một là, một nền chủ nghĩa toàn cầu đang xuất hiện.
Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp : lần thứ I: từ thế kỷ
XVIII, lần thứ II từ cuối thế kỷ XIX và lần thứ III từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại
đây. Những tiến bộ về khoa học - kỹ thuật và công nghệ của ba cuộc cách mạng
này đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên lạc
viễn thông xuống vài trăm lần; đã có tác động cực kỳ quá trình đến toàn bộ quan
hệ kinh tế quốc tế, đã biến các công nghiệp mang tính quốc gia thành công
nghiệp toàn cầu. Lấy công nghiệp may mặc làm ví dụ. Trớc đây với một máy may
dù có hiện đại đến đâu thì sản phẩm cũng chỉ bán trong một địa phơng, một quốc
gia hay một khu vực chi phí vận chuyển liên lạc quá cao đã làm mất hết lợi thế so
sánh nếu đa sản phẩm này đến thị trờng xa xôi. Nhng ngày nay, Công ty NIKE chỉ
nắm hai khâu: sáng tạo, thiết kế và phân phối toàn cầu, còn sản xuất do Công ty
các nớc thực hiện cũng đã làm cho công nghiệp may mặc có tính toàn cầu. Hàng
loạt công nghệ sản xuất xe máy, ô tô, máy tính điện tử máy bay ngày càng toàn
cấu hoá sâu rộng. Tính toàn cầu ở đây thể hiện ngay từ khâu sản xuất, đó là phân
công chuyên môn hoá cho nhiều nớc, đến khâu phân phối; tiêu thụ trên toàn cầu.
Từ việc giảm chi phí và cớc phí giao thông liên lạc, vận chuyển nhờ vào việc tạo ra
đờng sắt, tàu hoả, và tàu biển chạy bằng hơi nớc, ô tô, máy bay cho đến những
thập niên gần đây một cuộc giảm cớc phí giao thông liên lạc và viễn thông mới lại
diễn ra dựa trên cơ sở điện toán, số hoá, truyền thông vệ tinh, soi quang học mạng
Internet đã khuếch đại mạnh mẽ lân sóng toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế.
Nh vậy, nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các tập đoàn
kinh doanh, các quốc gia có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi
toàn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát triển. Đây là cơ sở
đầu tiên của nền kinh tế toàn cầy thống nhất.
6
Hai là: các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển:
Chính nền công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ đã trở thành cơ sở cho
các quan hệ kinh tế toàn cầu. Trớc hết là quan hệ thơng mại, chi phí vận tải liên
lạc giảm đi thì khả năng buôn bán trao đổi giữa địa phơng quốc gia, khu vực tăng
lên. Cùng với nó quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất diễn ra giữa các
quốc gia, liên tục càng dễ dàng. Các linh kiện của máy bay Boing, ô tô, máy tính
đã không phải là sản phẩm của một bớc mà của rất nhiều nơi trên thế giới.
Thơng mại toàn cầu, sản xuất chuyên môn hoá toàn cầu đã kéo theo đồng
vốn, tiền tệ, dịch vụ vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, lợng buôn bán
tiền tệ toàn cầu đã vợt xa con số 1500 tỷ USD. Trong đó, ta thấy rằng, thơng mại
điện tử xuất hiện và phát triển với tốc độ chóng mặt.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầy đã
ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, rào cản quốc gia. Các quốc gia các
khu vực, xích lại gần nhau hơn qua các tổ chức liên kết kinh tế. mang bản chất
chính trị nhiều hơn, những thập niên 40, xuất hiện khối liên kết kinh tế giữa Mỹ -
Tây Âu - Nhật và Hội đồng tơng trợ kinh tế SEV giữa các quốc gia xã hội chủ
nghĩa. Cho đến nay lại hình thành nên các tổ chức nh APEC, AFTA, NAFTA,
Đặc biệt quá trình quốc tế hoá về tài chính đẩy mạnh nhanh chóng: hình thành nên
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên nớc kinh tế và tiền tệ
Châu Âu gần 11 nớc thành viên với đồng tiền chung là đồng EURO. Cùng với các
tổ chức liên kết kinh tế là sự ra đời các cam kết này đã, đang và sẽ công kích mạnh
mẽ vào các bức tờng thành quốc gia, rào cản quốc gia. Các nớc thành viên của tổ
chức thơng mại thế giới (WTO) cũng đã cam kết một lộ trịnh giảm bỏ hàng rào.
Ngay cả đối với Mỹ, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay gây sức ép thơng mại đối
với các nớc có vẻ nh đã mất hiệu lực, với dấu hiệu là Mỹ đã ký tối huệ quốc
(MFN) đối với Trung Quốc.
Ba là: những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều trở nên bức
xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu. Không có khó khăn gì để
có thể nhận ra các vấn đề nổi cộm hiện nay của kinh tế toàn cầu. Môi trờng ngày
càng bị phá hoại, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; dân số thế giới tăng
nhanh đến mức nảy sinh nguy cơ bùng nổ dân số; đồng vốn toàn cầu vận động tự
7
do không có sự điều tiết là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc khủng hoàng
liên tiếp Châu Âu, Châu Mỹ, Châu á trong thời gian vừa qua; chiến tranh lạnh
chấm dứt, đồng nghĩa với nó là kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cờng, mở ra thời
kỳ hợp tác, hoà bình, phát triển mới
Những vấn đề này đã trở thành tất yếu khách quan đẩy đến toàn cầu hoá
kinh tế với những đặc trng chủ yếu: Thứ nhất là, các hàng rào quan thuế và phi
thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ theo các cam kết quốc tế đa phơng và
toàn cầu, tức là các biên giới quốc gia về thơng mại đầu t đang tiên vong. Thứ hai
là, các Công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi quốc gia, trên
các lĩnh vực cam kết, không phân biệt đối xử; thực chất là sự xoá bỏ các biên giới
về đầu t, dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác.
Tuy nhiên, đến đây chúng ta lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: làm thế
nào để giải quyết sự trói buộc của hệ thống tiền tệ quốc gia với hàng trăng đồng
tiền khác nhau, trao đổi theo các tỷ giá thả nổi bấp bênh? Làm thế nào để dung
hợp đợc với hệ thống luật pháp các quốc gia thủ cựu? Có cấn đến "một bàn tay
hữu hình toàn cầu" không? Và nh vậy toàn cầu hoá kinh tế không thể tránh khỏi
toàn cầu hoá về chính trị, an ninh, văn hoá, xã hội ?
1.3. Hai mặt của toàn cầu hoá.
Có ngời đã cho rằng: toàn cầu hoá là con dao hai lỡi. Thực tế cũng đã cho
thấy khi diễn ra hội nghị, diễn đàn bàn về vấn đề đẩy mạnh toàn cầu hoá thì bên
cạnh sự ủng hộ của một bộ phận quần chung là thái độ kịch liệt phản đối, biểu tình
gay gắt của không ít ngời lao động khác. Tại sao vậy? Quả thực, toàn cầu hoá
không mang lại cơ hội phát triển cho tất cả quốc gia, tất cả ngời lao động trên thế
giới. Toàn cầu hoá không hẳn là một tơng lai rực sáng không phải là một thiên đ-
ờng cho các nền kinh tế mà toàn cầu hoá là lò lửa, là một quá trình thử thách, đấu
tranh sinh tồn. Mỗi mặt tích cực mà nó mang lại luôn đi với mặt hạn chế nảy sinh
từ đó.
Toàn cầu hoá đa ra một thị trờng tiêu thụ mở rộng cho hàng hoá dịch vụ.
Thị trờng không hạn chế một nớc, một khu vực, hay một châu lục nữa mà đã là thị
trờng toàn cầu. Lúc này không ai khác chính bản thân sản phẩm quyết định sự tồn
tại của nó. Mỗi hàng hoá và dịch vụ phải đứng trớc một môi trờng cạnh tranh gay
8
gắt. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ chịu sức ép vô cùng lớn từ bên ngoài.
Không nhìn đâu xa, Việt Nam là một ví dụ phù hợp cho vấn đề này. Quả thực,
hàng hoá Việt Nam ngày nay đã có mặt nhiều nơi trên thế giới và ban đầu đã gây
uy tín không nhỏ thị trờng nớc ngoài ở Việt Nam không chỉ là gạo, cà phê, thuỷ
hải sản mà còn là sản phẩm may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ không ít các
Công ty TNHH t nhân Việt Nam có nhiều chi nhánh ở nớc ngoài. Đây là dấu
hiệu của khả năng cạnh tranh lành mạnh của hàng hoá, dịch vụ nớc ta. Bên cạnh
đó, thị trờng Việt Nam đã đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hàng hoá mang
nhãn hiệu của các nớc khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam đang
phải cạnh tranh với những u thế của ngời bạn láng giềng "khổng lồ", đó là: giá rẻ,
mẫu mã đẹp, phong phú đa dạng và với cả tâm lý "thích dùng đồ ngoại" của ngời
dân nớc ta. Với những khó khăn đang phải đối mặt liệu các doanh nghiệp Việt
Nam có đứng bên bờ "phá sản" hay không?
Một tác động tích cực của toàn cầu hoá mà không thể không nhắc đến. Có
thể nói đây là lợi ích hiện diện rõ ràng nhất đối với các nớc đang phát triển và
chậm phát triển. Đó là dòng chuyển vốn, công nghệ, kỹ thuật, phơng pháp quản lý
tiên tiến từ các nớc phát triển. Cơ hội này mở ra khả năng cho các nớc nhận rút
ngắn khoảng cách về thời gian và tiết kiệm tiền bạc cho giai đoạn từ nghiên cứu
cho đến khi triển khai, ứng dụng. Đây cũng là lợi thế cho các nớc đang phát triển
có điều kiện đi tắt, đơn đầu mọi phơng tiện. Nhng cũng chính dòng chảy vốn,
công nghệ, kinh tế, phơng pháp quản lý tiên tiến này tạo ra một thế lực cạnh tranh
đối với các nền kinh tế quốc gia trì trệ, kém hiệu quả. Trong một giới hạn nào đó,
dòng di chuyển này là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp Nhà nớc vào tình trạng
phá sản, đi kèm là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nảy sinh hàng loạt vấn đề cho xã hội
Chính phủ cần giải quyết.
Một biểu hiện của toàn cầu hoá hiện nay là hình thành các khối liên kết
kinh tế cùng với cam kết, thoả thuận nhằm dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan. Đây là
điều kiện quá trình thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong
kinh tế trong các quan hệ mua bán và giao lu quốc tế. Không những thế các nớc
chậm phát triển đợc hởng u đãi đặc biệt, chế độ tối huệ quốc, đợc cung cấp thông
tin tự do mậu dịch, liên minh thuế quan, đợc bảo đảm các quyền thông qua các tổ
9
chức quám sát, giám định quốc tế. Chính vì vậy, các nớc chậm phát triển có điều
kiện cải thiện quốc tế hoá không, liệu các chính sách tài chính có bắt kịp yêu cầu
của xu thế thời đại? Các cuộc khủng hoảng Đông Nam á, Brazin, Nga, trong
những năm 1997 - 1998 vẫn còn là những bài học sâu sắc cảnh báo cho các nớc có
tình hình tơng tự.
Điểm cuối cùng nh phần tất yếu của xu thế toàn cầu hoá đã trình bày, đó là
các vấn đề mang tính toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải
quyết đơn lẻ. Xu thế toàn cầu hoá tạo nền sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia để
cùng có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống lại sự phân biệt đối xử sự đan xen
phụ thộc lẫn nhau có còn có tác động hai mặt, các nền kinh tế sẽ nhạy cảm hơn
với các biến động quốc tế, nhng đồng thời những rủi ro có tính chất cá biệt cũng đ-
ợc phân tán. Do đó các nớc đang phát triển có thể đạt đợc sự ổn định tơng đối vốn
hết sức cần thiết.
Trong thơng mại và giải quyết tranh chấp dựa trên những định chế kinh tế
tài chính bình đẳng. Đây là điều kiện để các nớc chậm phát triển phát huy tối đa
lợi thế của mình. Tuy nhiên nền kinh tế toàn cầu hoá sẽ phụ thuộc ngày càng
nhiều vào các tổ chức quốc tế và khu vực: các hiệp định đa phơng, Công ty xuyên
quốc gia, liên minh kinh tế, tài chính mà trong một chừng mực nhất định nằm
ngoài tầm kiểm soát của các Chính phủ. Nh vậy, mặt khác, một mặt trái của nền
kinh tế tài chính là sự suy giảm bản sắc dân tộc, chủ quyền kinh tế song lại gia
tăng sức ép kinh tế, chính trị. Sự hạn chế về khả năng kiểm soát của các cổ phần
còn biểu hiện ở tình trạng tội phạm xuyên quốc gia, việc truyền bá nền văn hoá
phi nhân bản
Toàn cầu hoá là con dao hai lỡi, nhng là xu thế tất yếu khách quan mà bất
kỳ nền kinh tế nào cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy việc sử dụng nó nh thế
nào để mang lại hiệu quả cao nhất là cả một nghệ thuật tinh xảo.
2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
2.1. Việt Nam tất yếu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá ngày một phát triển mạnh mẽ, các quốc gia nhập
kinh tế quốc tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau ở mức độ này hay mức độ khác, thì
việc đóng cửa với thế giới là đi ngợc xu thế thời đại và khó tránh khỏi tình trạng
10
lạc hậu, chậm phát triển. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể
phải trả giá nhất định (nh chúng ta đã xem xét mặt trái của toàn cầu hoá) song đó
là yêu cầu tất yếu hớng tới sự phát triển của mỗi nớc. Việt Nam cũng không nằm
ngoài quy hoạch chung này.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung căn bản của toàn cầu hoá, nội
dung thứ hai là tự do hoá kinh tế. Nh vậy, nên hiểu toàn cầu hoá là một quá trình
quốc tế kinh tế bao gồm hai quá trình phát triển song song (đã nêu trên tự do hoá
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế) thì toàn cầu hoá có nghĩa là các quan hệ kinh
tế không những đợc tự do phát triển trên phạm vi toàn cầu mà còn phải tuân theo
những cam kết toàn cầu đa dạng. Do đó Đảng và Nhà nớc ta đã xác định t tởng
đúng đắn cho nền kinh tế nớc ta. Chủ động hội nhập, chỉ có chủ động hội nhập thì
nớc ta mới giữ gìn đợc bản sắc dân tộc trong tốc độ toàn cầu hoá hiện nay. Chỉ có
chủ động hội nhập mới đón bắt đợc những nguy cơ tiềm ẩn và giành lấy những
cơ hội quý báo để phát triển kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu đa dạng, phong
phú. Chỉ có chủ động hội nhập, Đảng và Nhà nớc mới có đợc những quyết định
sáng suốt trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế gắn liền với toàn cầu hoá về chính
trị, văn hoá, xã hội.
Khi nghiên cứu cuộc khủng hoàn kinh tế Thái Lan năm 1997, các nhà kinh
tế học cho rằng: toàn cầu hoá tự bản thân nó không là nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng mà chính là cái cách thức ngời ta điều hành quá trình của cuộc
khủng hoảng toàn cầu hoá. Tham gia vào một nền kinh tế thế giới rộng lớn hơn có
thể là một sự trợ giúp cho nền kinh tế trong nớc phát triển song chắc chắn rằng:
thành công hay thất bại của các nớc chủ yếu dựa vào công nhân của nớc đó dựa
bào các chính sách và đầu t của Chính phủ. Các nhà kinh tế học cũng đã khẳng
định: các nớc mà hiện nay đang vấp phải vô vàn khó khăn trong quá trình hội
nhập thì không phải là họ không biết lợi dụng hiện tợng toàn cầu hoá mà bởi vì họ
đã không thể trang bị cho mình một cách kịp thời những thể chế và những cán bộ
điều hành cần thiết để làm chủ quá trình hội nhập toàn cầu. Lấy Thái Lan làm ví
dụ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nền kinh tế năm 1997 là do
Thái Lan đã không làm chủ đợc dòng vốn từ nớc ngoài. Từ những năm 1990 Thái
Lan đã dỡ bỏ hết mọi hàng rào kiểm soát ngặt nghèo sự dịch chuyển t bản qua
11
biên giới, do đó dòng chảy t bản đã ào ạt vào Thái Lan dới hình thức đầu t ngắn
hạn, và sau đó lại rút ra hết sức nhanh chóng gây nên sự rối loạn thị trờng tài
chính. Do đó các nhà kinh tế đã đa ra các biện pháp chủ yếu để cần thiết, tiếp tục
một chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, cải cách thể chế và làm chủ dòng chảy t
bản quốc tế. Nh vậy có nghĩa là Thái Lan phải tham giatt quốc tế một cách ổn
định tốc độ vừa phải và thực sự chủ động trong quá trình hội nhập đó bằng những
hành lang thể chế. Bởi vì nếu không chủ động thì sự tự do hoá sẽ dẫn đến tình
trạng vô Chính phủ, nền kinh tế không tồn tại và phát triển lâu dài đợc.
Bởi vì Thái Lan cũng là một quốc gia thuộc Châu á, cùng chung những điều
kiện tự nhiên và xã hội với Việt Nam, cũng vấp phải những khó khăn mà nớc ta
đang trải qua. Cho nên nền kinh tế Thái Lan là một bài học đắt giá đối với nớc ta
về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Và cũng từ đó để thấy rằng chủ động hội nhập
kinh tế toàn cầy là con đờng đúng đắn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển
của nớc ta.
2.2. Nội dung và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với kim chỉ nam nh trên, việc nghiên cứu nội dung và hình thức hội nhập
kinh tế quốc tế không chỉ là nhu cầu cấp bách mà còn là nhiệm vụ quan trọng sự
phát triển kinh tế đất nớc.
2.2.1. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) hiện nay có thể là một tổ chức kinh tế
toàn cầu có sức mạnh nhất với các Hiệp nghị có nội dung có tính chất chi phối
các kinh tế quốc tế thể hiện rõ nhất nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Các vấn đề mang tính nguyên tắc đợc rút từ đợc cam kết ông đàm phán (diễn ra từ
khi hiệp định chung về thơng mại và thiếc quan GATT năm 1947 tại Genevơi cho
đến nay). Đó là:
Về thơng mại hàng hoá.
Thứ nhất là, giảm thuế nhập khẩu và bỏ hàng rào phi quan thuế. Thuế nhập
khẩu cao và các biện pháp phi quan thuế thực tế là hàng rào ngăn cản quá trình hội
nhập quốc tế của các quốc gia. Các biện pháp phi quan thuế đã phát triển hết sức
tinh vi và đa dạng và không có cách nào định lợng đợc các hàng rào đa dạng này.
ở không ít các nớc, mức thuế nhập khẩu thấp nhng hàng rào phi quan thuế tinh vi
12
đã không cho hàng hoá nhập vào. Chính vì vậy, ngời ta đã kết luận là phải sớm
xoá bỏ hàng rào này và quy về biện pháp bảo hộ duy nhất là thuế nhập khẩu. Với
hàng rào này, ngời ta có thể định lợng cao thấp, cam kết hạ dần hàng rào và quan
trọng là có thể kiểm soát việc thực hiện cam kết. Mức thuế suất đối với hàng nhập
khẩu từ các nớc công nghiệp sẽ giảm từ 6,3% xuống 3,9%. Đối với mức giảm
thuế quan các thành viên WTO (tức là GATT) cam kết thực hiện tự do hoá thơng
mại và dịch vụ, chống bán phá giá, đảm bảo quyền sở hữu trí tựu
Thứ hai là công nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các chủ thể và
cá nhân trong và ngoài nớc trên lãnh thổ của mình.
Lấy Mỹ và Việt Nam làm ví dụ. Nguyên tắc này cho phép các Công ty Việt
Nam sang Mỹ kinh doanh xuất nhập khẩu và ngợc lại với tất cả mọi quyền nh
Công ty của nớc sở tại, có nghĩa là sẽ thiết lập một môi trờng kinh doanh bình
đẳng ở mọi quốc gia, tạo ra một thế giới tơng đối thống nhất với các chsủ thể kinh
doanh và quyền hoạt động toàn cầu. Đây là con đờng phát triển bởi áp lực cạnh
tranh sẽ tăng lên, động lực phát triển sẽ tăng cờng. Bởi vì sự xuất hiện của các
Công ty nớc ngoài hùng mạnh vào hoạt động thì buộc các Công ty trong nớc phải
vơn mình để tồn taị và phát triển.
Về thơng mại dịch vụ:
Hiệp định dịch vụ của WTO quy định các nớc mở cửa thị trờng dịch vụ cho
nhau theo 4 phơng thức: (1) cung cấp dịch vụ qua biên giới từ lãnh thổ của nớc
thành viên này sang lãnh thổ thành viên khác. (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ. (3)
hiện diện thơng mại của Công ty một nớc thành viên lãnh thổ một thành viên khác
với các hình thức lập liên doanh, chi nhánh, Công ty 100% vốn đầu t nớc ngoài.
(4) hiện diện chủ nhân, di chuyển t nhân. WTO cũng đã quy định: khi đàm phán
mở cửa thị trờng dịch vụ, các nớc phát triển theo phơng pháp loại trừ tức là không
chấp nhận dịch vụ nào thì đa ra đàm phán, còn các nớc đang phát triển đợc quyền
chỉ đa ra đàm phán lĩnh vực nào đợc chọn mở cửa.
Về đầu t, WTO cha có đợc một hiệp định chung mà mới chỉ có một số quy
đọnh về đầu t có liên quan đến thơng mại.
WTO cũng đã có những quy định trong các lĩnh vực khác.
Hiệp định về bảo vệ quyền sở hữu trì trệ.
13
Quy định không phân biệt đối xử, nguyên tắc đối xử quốc gia áp dụng cho
các đầu t và dịch vụ tức là không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu hàng sản xuất
trong nớc.
Quy định về việc công bố công khai và minh hạch tất cả các chính sách
kinh tế, thơng mại của các nớc thành viên.
Cho phép các nớc có hành động tự vệ trong trờng hợp cần thiết để bảo vệ
cán cân thanh toán, ngành công nghiệp non trẻ bị bên ngoài tấn công.
Quy định về chế độ u đãi cho các nớc đang phát triển, những nớc có nền
kinh tế chuyển đổi về lộ trình thực hiện cam kết, có thể kéo dài 5 năm.
Các quốc gia muốn tham gia nhập WTO phải đàm phán, nội dung chủ yếu
của đàm phán là lộ trình dài, ngắn thực hiện các vấn đề có tính nguyên tắc nêu
trên chung không thể đàm phán không thực hiện.
2.2.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế.
Với sự phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp của các quan hệ kinh tế thì
cũng thể hiện ngày càng nhiều các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế. ở đây chỉ
nêu lên ba hình thức cơ bản, chủ yếu hiện nay.
1 - Các hiệp nghị kinh tế thơng mại song phơng.
Đây là hình thức hội nhập quốc tế phổ biến nhất và quan trọng nhất không
chỉ đối với các nớc phát triển mà đối với cả các nớc đang phát triển. Mỹ là nớc có
nền kinh tế phát triển nhất, hội nhập kinh tế quốc tế với vai trò chi phối song chủ
yếu và trớc hết vẫn đa vào các hiệp nghị kinh tế thơng mại hai bên: Mỹ - Nhật, Mỹ
- Châu Âu Nhật Bản hay các nớc NIESS cũng vậy. Các quốc gia này, tay không
tham gia vào các khối kinh tế song các quan hệ hai bên của họ cũng đủ sức tạo ra
cạnh tranh những lợi thế so sánh có lợi cho họ trong cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, các
quốc gia ký hiệp định kinh tế, thơng mại với Mỹ, dù chỉ là quan hệ giữa hai nớc
nhng tổng lợng thị trờng hàng hoá dịch vụ đầu t đã không thua kém bất kỳ một
khối kinh tế nào. Mặc dù vậy các hiệp định kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có
những hạn chế, đó là khi phải đối diện với các vấn đề mang tính toàn cầu, những
khối kinh tế hùng mạnh.
2 - Các khối kinh tế khu vực.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét