trình tái sản xuất ở doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân này thì ở các chủ thể khác lại có
nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung.
Vốn tiền tệ nhàn rỗi xuất hiện ở từng doanh nghiệp do tuần hoàn của vốn cố
định dưới hình thức vốn khấu hao trong thời gian chưa sử dụng để mua máy móc
thiết bị mới hoặc chưa có nhu cầu sửa chữa lớn tài sản cố định, trong khi việc tính
khấu hao được tiến hành một cách thường xuyên. Tuần hoàn của vốn lưu động cũng
xuất hiện vốn tiền tệ nhàn rỗi tạm thời do chênh lệch về số lượng, thời gian giữa
việc tiêu thụ sản phẩm và mua nguyên vật liệu (đã tiêu thụ sản phẩm nhưng chưa có
nhu mua nguyên vật liệu hoặc bán nhiều hơn mua). Do có những khoản phải trả
nhưng chưa trả (lương ) phải nộp nhưng chưa nộp (thuế ) hoặc những khoản vốn
tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong quan hệ thanh toán với các hình thức thanh toán
khác nhau (nhận tiền nhưng chưa giao hàng hoặc nhận hàng nhưng chưa phải trả
tiền).
Trong toàn xã hội cũng xuất hiện một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi do chênh
lệch về số lượng và thời gian trong việc thu, chi của các cơ quan đoàn thể, các tổ
chức xã hội, kể cả ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là bộ phận tiền nhàn rỗi dưới hình
thức tiền để dành của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong khi có những bộ phận
vốn tiền tệ nhàn rỗi nằm rải rác ở các chủ thể kinh tế này thì ở các chủ thể kinh tế
khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung. Các doanh nghiệp thiếu vốn cố
định khi cần thay thế máy móc thiết bị mới hoặc có nhu cầu sửa chữa lớn tài sản cố
định mà chưa tính đủ khấu hao. Mặt khác, doanh nghiệp lại có nhu cầu mở rộng
phạm vi, quy mô sản xuất kinh doanh, nhu cầu cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất
hoặc chuyển dịch vốn sang các ngành kinh doanh khác.Nhu cầu vốn lưu động cần
được bổ sung do chưa tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá mà đã có nhu cầu mua
nguyên vật liệu hoặc bán ít hơn mua. Điều này đặc biệt cần thiết với những doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh mang tính chất thời vụ.
Thiếu vốn cần được bổ sung không chỉ là nhu cầu đối với các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông mà còn là nhu cầu bổ sung thiếu hụt
tạm thời giữa thu và chi của các tổ chức cá nhân khác trong xã hội, kể cả ngân sách
Trang 5
nhà nước. Nó cũng không chỉ là nhu cầu đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, lưu thông mà
còn là nhu cầu cần thiết cho tiêu dùng.
Mâu thuẫn giữa hiện tượng thừa thiếu vốn tiền tệ trong xã hội phát sinh trong
khi quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá cần được duy trì một cách đều đặn thường
xuyên đòi hỏi phải có tín dụng để giải quyết mâu thuẫn đó đồng thời trở thành cầu
nối giữa nhu cầu tiết kiệm và đầu tư bằng các hình thức tín dụng thích hợp.
Trong khi còn tồn tại hai hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa, vận động của tín dụng thích hợp với từng hệ thống. Tín dụng tư bản chủ
nghĩa với sự vận động của tư bản cho vay là hình thức vận động của vốn tín dụng
TBCN. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người sở hữu nó đem cho vay để thu lợi
tức trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê. Nguồn hình thành tư bản cho vay chính là
tư bản tiền tệ nhàn rỗi giải phóng khỏi quá trình tái sản xuất xã hội; tư bản tiền tệ
của những nhà tư bản chuyên dùng vào lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng bằng
cách cho vay trực tiếp hoặc gửi ngân hàng - ngoài ra là tiền để dành của các tầng lớp
dân cư trong xã hội đã biến hành tư bản cho vay.
Tư bản cho vay với những đặc điểm cơ bản đã được Mác phân tích một cách
đầy đủ đó là tư bản sở hữu đối lập với tư bản chức năng nghĩa là tư bản sở hữu thì
không sử dụng còn nguồn sử dụng lại không có quyền sở hữu.
- Tư bản cho vay là tư bản được xem như hàng hoá do có những đặc điểm
giống và khác so với hàng hoá thông thường. Tư bản cho vay giống hàng hóa thông
thường vì người ta đều cần đến giá trị sử dụng mà giá trị sử dụng của tư bản cho vay
chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc để đáp ứng nhu cầu mua sắm các mặt hàng
tiêu dùng cần thiết. Đồng thời tư bản cho vay cũng có giá cả là lợi tức tín dụng được
tính trên cơ sở lãi suất tín dụng mà lãi suất cũng chịu sự tác động của quan hệ cung
cầu về vốn tín dụng trên thị trường. Tư bản cho vay khác hàng hoá thông vì khi bán
hàng hóa thông thường người bán mất cả quyền sở hữu và quyền sử dụng. Còn
trong quan hệ tín dụng người cho vay không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất quyền
sử dụng nhưng không phải là vĩnh viễn mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời
gian nhất định theo thời gian cho vay. Mặt khác giá cả hàng hoá thông thường là
biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá còn lợi tức tín dụng độc lập tương đối so
Trang 6
với giá trị hàng hoá, nó chỉ là phần người đi vay trả thêm cho người cho vay cho
việc sử dụng số tiền đã vay.
- Tư bản cho vay có hình thức chuyển nhượng và vận động đặc biết (theo công
thức vận động T - T')
Công thức vận động của tư bản sản xuất:
TLSX
T - H ( H' - T'
SLĐ
Vận động của tư bản lưu thông T- H - T'
Vận động của tư bản cho vay T - T'
Trong công thức vận động T - T' quá trình sản xuất lưu thông đã bị che lấp và
dấu kín, ở đây tiền dường như đã tự lớn lên mà không hề có sự tham gia vào lĩnh
vực sản xuất lưu thông. Nhưng trên thực tế người đi vay đã dùng tiền vay đầu tư vào
sản xuất lưu thông để thu lợi nhuận và phân chia cho nhà tư bản cho vay một phần.
Như vậy tư bản cho vay là một hình thức tuỳ thuộc vào tư bản sản xuất lưu thông.
Tư bản cho vay là tư bản ăn bám nhất và được sùng bái nhất vì nhà tư bản cho
vay không hề tham gia vào lĩnh vực sản xuất lưu thông cũng không làm công tác
quản lý lãnh đạo nhưng vẫn thu được lợi tức. Đặc biệt công thức vận động T- T' đã
làm cho tư bản cho vay có sức mạnh huyền bí, kỳ diệu và trở thành một hình thức tư
bản được sùng bái nhất. Cho đến nay các nước đều hướng nền kinh tế phát triển
theo cơ chế thị trường, người ta chỉ quan tâm đến tín dụng trong nền kinh tế thị
trường mà không phân biệt tín dụng tư bản chủ nghĩa và tín dụng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngày càng mở rộng, chủ thể tham gia trong
quan hệ tín dụng bao gồm cả các cá nhân, doanh nghiệp và cả nhà nước trung ương
cũng như địa phương. Quan hệ tín dụng được mở rộng cả đối tượng và quy mô thể
hiện ở các mặt sau:
- Các tổ chức tín dụng Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng khác phát
triển mạnh ở khắp mọi nơi.
Trang 7
- Các doanh nghiệp đều sử dụng vốn tín dụng với các hình thức khác nhau:
vay Ngân hàng, mua chịu hàng hoá, phát hành trái phiếu
- Thu nhập của các thành viên trong xã hội có khả năng ngày càng tăng nên
càng có nhiều người tham gia vào quan hệ tín dụng. Với tư cách là người cho vay,
các cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng, quỹ tiết kiệm, mua trái phiếu doanh nghiệp và
trái phiếu Nhà nước Với tư cách là người đi vay, ngày càng có nhiều người vay
vốn Ngân hàng hoặc vay trên thị trường vốn để phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất
lưu thông hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Cùng với việc mở rộng các quan hệ tín dụng, hình thức tín dụng ngày càng trở
nên đa dạng phong phú như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nhà
nước, tín dụng hợp tác xã
Có thể khái niệm tín dụng bằng các cách khác nhau. Theo cách đơn giản nhất:
Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi giữa người đi
vay và người cho vay.
Tín dụng theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại là trên cơ sở lòng
tin, nghĩa là người cho vay tin tưởng vào người đi vay sẽ sử dụng vốn có hiệu quả
và hoàn trả đúng thời hạn cả vốn lẫn lãi.
Mặc dù có những khái niệm về tín dụng theo cách diễn đạt khác nhau nhưng
có thể nêu một cách tổng quát: Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người
sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận với nhau.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân
hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức cá nhân trong xã hội trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa
là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ
chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã
hội.
Trang 8
Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh
nghiệp , tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này tín dụng ngân hàng đã thực
hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã hội - cơ
sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng ngân
hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã
thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức cá nhân này,
trong khi ở những tổ chức cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung.
Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa
các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái
sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại cũng đã giải
quyết quan hệ trực tiếp giữa những doanh nghiệp cần tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
với những doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng cho sản xuất lưu thông mà chưa có
tiền. Nhưng do hạn chế của tín dụng thương mại đã không đáp ứng được yêu cầu
tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vay vốn
với khối lượng thời hạn khác nhau. Chỉ có ngân hàng là tổ chức chuyên kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó khi ngân hàng giữ vai
trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Như vậy, cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi
l.2. Nội dung nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng.
Theo khái niệm trên đây thì nội dung của nghiệp vụ cho vay của ngân hàng và
các tổ chức tín dụng có thể hiểu như sau:
l.2.1. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh
nghiệp và giữa các ngân hàng với nhau được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Tín dụng ngân hàng mang các đặc trưng cơ bản sau đây:
Trang 9
- Đối tượng cho vay là vốn tiền tệ. Số vốn này không nằm trong quá trình tuần
hoàn của chu kỳ sản xuất kinh doanh mà là một loại vốn riêng biệt: vốn nhàn rỗi
dùng để cho vay.
- Chủ thể vay vốn chủ yếu là các doanh nghiệp.Trong một số trường hợp các
ngân hàng cũng tiến hành đi vay của nhau. Chủ thể cho vay là các ngân hàng và
công ty tài chính.
- Tín dụng ngân hàng vận động không hoàn toàn thống nhất với sự vận động
của quá trình sản xuất kinh doanh thời kỳ sản xuất phát triển, nhu cầu về vốn vay rất
lớn nhưng khả năng cung cấp vốn vay lại có hạn vì trong quá trình cạnh tranh người
ta đều đổ xô vào việc đầu tư sản xuất nên cần nhiều vốn. Ngược lại số người có tiền
đem gửi lại rất ít.
Thời kỳ khủng hoảng, trì trệ sản xuất, khả năng cung cấp vốn vay lại rất lớn vì
nhiều người không bỏ vào sản xuất mà đem gửi ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu
về vốn vay lại giảm vì không có lĩnh vực nào đầu tư có lợi , lúc này chỉ có một số ít
người đi vay để đảm bảo khả năng thanh toán khỏi bị phá sản.
- Từ những đặc điểm trên mà tín dụng ngân hàng đã khắc phục được các hạn
chế của tín dụng thương mại. Tín dụng ngân hàng với nguồn vốn rất lớn và vốn
bằng tiền đã giải quyết linh hoạt mọi nhu cầu vốn phát sinh và ngày càng giữ vị trí
quan trọng.
1.2.2. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một: sử dụng vốn vay đúng mục đích để thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (cho
vay có mục đích, có kế hoạch và có hiệu quả).
Cho vay có kế hoạch, có mục đích và có hiệu quả. Tức là, các đơn vị có nhu
cầu vay vốn của Ngân hàng đều phải có kế hoạch, đơn xin vay gửi ngân hàng với
đầy đủ các nội dung sau: Số tiền vay, thời hạn sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng
vốn vay và tính hiệu quả của vốn vay ngân hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng kiểm tra
xem xét, nếu thấy đồng vốn vay ngân hàng đem lại hiệu quả kinh tế và trả nợ đúng
hạn thì mới quyết định cho vay. Mặt khác trên cơ sở kế hoạch xin vay vốn của
người xin vay, bản thân ngân hàng phải xây dựng kế hoạch cho vay vốn của mình
Trang 10
để chủ động trong việc đầu tư tín dụng. Nguyên tắc đảm bảo cho khách hàng vay
vốn có đủ vốn và vay vốn có kế hoạch. Đồng thời nguyên tắc này nhằm tiết kiệm
đồng vốn, đầu tư vốn có trọng điểm và có hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra nó còn
tăng cường sự giám đốc bằng đồng tiền của ngân hàng đối với đơn vị vay vốn của
ngân hàng.
Trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn phát sinh ngoài kế hoạch, ngân
hàng xét thấy cần thiết và hợp lý, cân đối với nguồn vốn của mình, có thể cho vay
bổ sung cho người vay. Vốn vay phải sử dụng đúng cam kết và mục đích.
Hai: Người vay vốn phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn và lãi. Bởi vì, nguồn
vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn tập trung và huy động từ các thành
phần kinh tế trong xã hội. Do vậy, những người vay vốn của ngân hàng sau một kỳ
hạn nhất định nào đó đều phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đơn vị
vay vốn sau một thời gian nhất định phải trả cho ngân hàng một khoản lợi tức thoả
thuận, vì đó là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân hàng và là một cơ sở
cho ngân hàng tiến hành hạch toán kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước, đến thời kỳ trả nợ mà đơn vị vay vốn không trả cho ngân hàng thì ngân
hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và đơn vị phải chịu lãi suất cao hơn lãi suất thông
thường. Đồng thời nó đảm bảo sự thống nhất giữa vận động của vật tư, hàng hoá và
sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế , góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá
cả. Với nguyên tắc này ngân hàng bảo toàn được vốn , kịp thời đưa vốn vào hoạt
động kinh doanh của mình, có thu để bù đắp chi và có lãi nhằm duy trì và phát triển
hoạt động của bản thân ngân hàng.
Ba: Cho vay có giá trị vật tư đảm bảo. Các đơn vị muốn vay vốn của ngân
hàng đều phải xuất trình đầy đủ chứng từ, hoá đơn, hợp đồng mua bán hàng hoá.
Trên cơ sở đó cán bộ ngân hàng tiến hành xét cho vay tương đương với giá trị vật tư
hàng hoá đã được ghi trên chứng từ, hoá đơn hợp đồng. Điều này áp dụng với
doanh nghiệp Nhà nước. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn vay vốn
của ngân hàng đều phải thế chấp bằng tài sản, ngân hàng xét cho vay thông thường
bằng 60-70% giá trị thế chấp. Thế chấp có thể bằng hàng hoá thông thường hoặc các
chứng từ có giá như tín phiếu , kỳ phiếu, cổ phiếu, giấy chứng nhận quyền sở hữu
Trang 11
bất động sản. Hoặc có thể vay vốn thông qua sự bảo lãnh của các tổ chức kinh tế , tổ
chức tín dụng có uy tín.
Trong suốt quá trình sử dụng vốn vay, các đơn vị vay vốn luôn có giá trị vật tư
tương đương làm bảo đảm. Nguyên tắc này giúp cho các đơn vị sử dụng vốn vay
một cách có hiệu quả. Ngân hàng cho vay vốn an toàn tránh những rủi ro không
đáng có trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh, nguyên tắc này bảo
đảm quan hệ cân đối giữa tiền tệ và hàng hoá trong lưu thông góp phần bình ổn giá
cả.
Ba nguyên tắc cơ bản nói trên có quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau thành một
tổng thể thống nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với
các thành phần kinh tế , phòng ngừa được các yếu tố rủi ro đảm bảo an toàn tín
dụng. Và cũng là để "Vừa tạo tiền đề, vừa gây sức ép buộc các đơn vị kinh tế tìm
mọi biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế" , hoạt động tín dụng ngân hàng cần
chuyển mạnh và đúng hướng sang hạch toán kinh doanh thực sự, thúc đẩy khẩn
trương tổ chức sắp xếp lại nền kinh tế - khách thể của tín dụng ngân hàng, phù hợp
với cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đồng thời việc đổi mới khách thể là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chủ thể của tín dụng ngân hàng làm cho nó đủ sức tạo được thị trường "đầu vào" để
tăng nhanh nguồn vốn và mở rộng thị trường "đầu ra" nghĩa là tín dụng ngân hàng
phải đổi mới mạnh mẽ, sử dụng giải pháp "khơi trong , hút ngoài" và liên doanh liên
kết kinh tế nhằm khai thác mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế và thu
hút vốn đầu tư của các chính phủ cũng như tư nhân nước ngoài để phát triển mạnh
mẽ nền kinh tế và xây dựng đất nước.
1.3- Vai trò nghiệp vụ cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương nghiệp
và tổ chức tín dụng.
Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ sinh lợi chủ yếu của ngân hàng thương mại và
tổ chức tín dụng nếu xét về thời hạn thì nghiệp vụ cho vay chủ yếu là cho vay ngắn
hạn. Chính loại cho vay này giúp cho tổ chức tín dụng giữ được khả năng thanh
toán, vì nó thích ứng với kết cấu bên khoản mục bên tài sản nợ. Tuy nhiên đối với
ngân hàng kinh doanh đa năng và Ngân hàng, tổ chức tín dụng lớn khi tỷ trọng các
Trang 12
loại tiền gửi dài hạn tăng lên thì họ cũng mở rộng các khoản tín dụng trung và dài
hạn.
Khối lượng tín dụng của ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cho các
doanh nghiệp công nghiệp, thương nghiệp để thực hiện các khoản thanh toán và dự
trữ hàng hoá. Ngoài ra ngân hàng thương mại , tổ chức tín dụng còn cho vay đầu tư
phát triển dưới hình thức tài trợ vay trung và dài hạn với một tỷ trọng hợp lý; cho
vay lĩnh vực nông nghiệp, cá nhân trong lĩnh vực nông nghiệp và cá nhân trong lĩnh
vực tiêu dùng
Các Ngân hàng thương mại , tổ chức tín dụng làm tốt nghiệp vụ cho vay cũng
chính là thực hiện một trong những chức năng của Ngân hàng Thương mại, tổ chức
tín dụng: chức năng tín dụng ngân hàng, nó sẽ đưa lại những kết quả và thuận lợi
mới cho Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng và nền kinh tế.
Trước hết nó phục vụ việc phân phối lại vốn giữa các ngành kinh tế khác nhau,
góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và góp phần tích tụ, tập trung vốn
đối với nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra
khỏi quá trình tuần hoàn của tái sản xuất và các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của
các tầng lớp khác nhau trong xã hội được tập trung vào các ngân hàng với một khối
lượng rất lớn. Số vốn này được các ngân hàng cho các nhà sản xuất vay bất kể họ
sản xuất ở ngành nào. Do vậy mà tín dụng phục vụ việc phân phối lại vốn giữa các
ngành.
Mặt khác, quá trình cạnh tranh trong sản xuất đã dẫn đến các nhà sản xuất từ
bỏ ngành nào có lợi nhuận thấp để chuyển sang sản xuất ở ngành khác có lợi nhuận
cao hơn. Do vậy mà có sự dịch chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. Sự dịch
chuyển vốn này gặp rất nhiều khó khăn như cơ sở vật chất, nhà xưởng, máy móc
Đòi hỏi phải có một số lượng vốn lớn mới đáp ứng được yêu cầu. Để giải quyết các
khó khăn này, các nhà sản xuất đã dựa vào quan hệ tín dụng. Tức là họ xin vay vốn
tại các ngân hàng để đầu tư vào ngành sản xuất có lợi nhuận cao. Khi có sự tham gia
của tín dụng, sự dịch chuyển vốn giữa các doanh nghiệp được giải quyết nhanh
chóng đã kích thích quá trình tái sản xuất xã hội, tăng sức cạnh tranh làm thay đổi
Trang 13
lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành tạo nên tỷ suất lợi nhuận bình quân của toàn
bộ nền kinh tế.
Cũng từ việc phân phối lại vốn mà tín dụng được đầu tư vào các doanh nghiệp
lớn làm cho họ đứng vững trong cạnh tranh và thôn tính được các doanh nghiệp
nhỏ. Bởi vậy các doanh nghiệp nhỏ muốn tồn tại phải tập trung vốn lại với nhau
bằng cách hợp nhất lại thành các doanh nghiệp lớn. Do vậy các công ty cổ phần lần
lượt ra đời. Tín dụng càng phát triển, càng đẩy nhanh việc tập trung vốn vào công ty
cổ phần.
Ngoài ra, tín dụng góp phần gia tăng tốc độ tích luỹ vốn. Từng doanh nghiệp
muốn tích luỹ vốn để phát triển sản xuất phải trải qua một thời gian dài. Nhờ có tín
dụng mà các khoản vốn nhàn rỗi được tập trung lại vào các ngân hàng và các ngân
hàng đã cho các doanh nghiệp vay kịp thời làm cho sản xuất phát triển mạnh, nhanh
chóng tăng cường tích luỹ vốn cho từng doanh nghiệp .
Tóm lại làm tốt nghiệp vụ cho vay Ngân hàng Thương mại - Tổ chức tín dụng thực
hiện chức năng tín dụng ngân hàng tạo cho tổ chức tín dụng có vai trò nổi bật trên
các mặt sau đây:
Một là, thông qua chức năng phân phối lại vốn, tín dụng góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể: Tín dụng làm cho quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, thu lợi nhuận
tối đa cho những nhà sản xuất lớn; tín dụng thúc đẩy quá trình cạnh tranh tạo ra sức
bật cho nền kinh tế.
Hai là; tín dụng được coi như một công cụ trong chính sách tiền tệ quốc gia để
thực hiện điều hoà lưu thông tiền làm cho tiền tệ ổn định. Thông qua tín dụng, Ngân
hàng Trung ương tiến hành việc phát hành thêm tiền vào lưu thông hoặc bớt tiền ra
khỏi lưu thông tuỳ theo yêu cầu phát triển kinh tế. Như vậy, yêu cầu quy luật lưu
thông tiền tệ được tôn trọng.
Ba là, tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển. Nhờ có
tín dụng cấp vốn mà nhiều lĩnh vực kinh tế, nhiều ngành kinh tế đã phục hồi và phát
huy được thế mạnh. Mặt khác, tín dụng góp phần tác động để tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét