xã hội, mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
đều thông qua thị trờng. Vậy kinh tế thị trờng không chỉ là công
nghệ, mà còn là những quan hệ kinh tế xã hội, nó không chỉ gồm các yếu
tố của lực lợng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Nh vậy
chứng tỏ không thể có một nền kinh tế thị trờng chung chung, thuần tuý, tách
rời khỏi hình thái kinh tế xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị xã hội
của một nớc.
Phần 1: Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT
địng hớng XHCN.
1 Quan niệm về KTTT.
Kinh tế thị trờng không phải là một chế độ xã hội hay là một phơng
thức sản xuất xã hội nào, mà nó chỉ là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội. Và từ
xa xa loài ngời đã có và trải qua nhiều kiểu tổ chức kinh tế nh: kinh tế tự biên,
tự cấp, tự túc đến kinh tế hàng hoá (kinh tế hàng hoá giản đơn) rồi đến kinh tế
hàng hoá t bản, và ngày nay là kinh tế thị trờng.
Mặc dù theo dự đoán của Mác, kinh tế thị trờng chỉ là một giai đoạn
làm tăng sự phát triển lực lợng sản xuất mà thôi. Nhng những thế kỷ trôi qua
kinh tế thị trờng đã tồn tại và phát triển dới chủ nghĩa t bản. Vậy kinh tế thị tr-
ờng là gì ?
Kinh tế thị trờng là hình thức kinh tế phát triển cao của kinh tế hàng
hoá. Trong đó từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trờng.Đén đây để
hiểu đợc kinh tế thị trờng, trớc tiên chúng ta phải hiểu đợc kinh tế hàng hoá là
gì ? liệu kinh tế hàng hoá có thể đồng nhất với kinh tế thị trờng đợc không ?
Và mối quan hệ giữa chúng là nh thế nào ?
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế_xã hội, mà trong đó sản
phảm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trờng. Mục đích của sản xuất
trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của ngời sản
xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của ngời mua
đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế thị trờng và kinh tế hàng hoá không thể
đồng nhất với nhau đợc. Chúng khác nhau về trình độ phát triển. Nhng về cơ
bản chúng giống nhau về bản chất.
Kinh tế thị trờng là kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng.
Trong kinh tế thị trờng các quan hệ kinh tế đều đợc tiền tệ hoá.
2 Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT địng hớng
XHCN.
2.1 Phát triển kinh tế thị trờng là sự lựa chọn đúng đắn, tồn tại mang tính
khách quan.
Mặc dù loại hình kinh tế giản đơn đã xuất hiện từ rất sớm ,đợc tồn tại
trong các chế độ chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, song về cơ bản các
nền kinh tế tồn tại trớc chủ nghĩa t bản vẫn cha thoát ra khoải khuôn khổ của
mô hình kinh tế tự nhiên mà đặc tính hiện vật và tự cung tự cấp là chủ yếu.
Do vậy khi xác định quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế tự nhiên sang mô
hình kinh tế hành hoá ở trình độ cao là kinh tế thị trờng, theo đùng nghĩa phải
lấy cái mốc hay phải kể từ khi phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa đợc xác
lập. Và tất nhiên cũng không nên đồng nhất kinh tế thị trờng là kinh tế t bản
chủ nghĩa.
Theo Mác_LêNin nhận xét: kinh tế thị trờng góp phần đa trình độ năng
suất và xã hội hoá sản xuất lên bớc phát triển đồ sộ bằng tất cả các thế hệ tr-
ớc cộng lại .
Nh vậy xét theo khía cạnh kinh tế và logic hay lịch sử cho thấy, không thể
chuyển nền kinh tế kém phát triển lên nền kinh tế phát triển nếu đòn bẩy kinh
tế thị trờng bị bỏ qua hay bị xem nhẹ. Có thể nói rằng: so với mô hình
kinh tế tự nhiên, mô hình kinh tế hàng hoá hay mô hình kinh tế thị trờng là b-
ớc phát triển của nền văn minh mà nhân loại đã sáng tạo ra, gắn liền với văn
minh công nghiệp. Chứ thực chất kinh tế thị trờng không phải là sản phẩm
riêng có của chủ nghĩa t bản. Nó ra đời ngay từ thời kì tan giã của công xã
nguyên thuỷ và tồn tại ngay trong lòng của chủ nghĩa xã hội. Bởi :
Thứ nhất: Do có sự phân công lao động xã hội_Là cơ sở chung của sản
xuất hàng hoá. Nó không những mất đi mà ngay càng phát triển mạnh cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều nay đợc thể hiện thông qua tính đa dạng,
phong phú và chất lợng đợc nâng cao của sản phẩm trao đổi trên thị trờng.
Thứ hai: Do có sự phân công chuyên môn hoá ngày càng sâu. Đã tạo ra
nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau, làm cho mỗi ngành sản xuất chỉ sản
xuất đợc một vài loại khác nhau, mà nhu cầu của cuộc sống là phong phú , đa
dạng.Từ đó đòi hỏi phải có sự trao đổi.
Sự phân công này đã diễn ra ở từng ngành, từng khu vực, từng địa phơng và
ngày càng phát triển. Nó không những chỉ diễn ra trong nớc mà còn tiến tới
phân chia hợp tác quốc tế.
Th ba: Do có sự tách biệt nhận định kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Sự
tách biệt này trớc hết là khác nhau về quan hệ sở hữu. (Ví dụ nh sở hữu t nhân
khác sở hữu nhà nớc, ). Các thành phần kinh tế tuy có cùng dựa trên chế độ
công hữu về t liệu sản xuất, nhng vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế
còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật công nghệ, về trình độ quản lý, và
do đó chi phí sản xuất, hiệu quả cũng khác nhau. Chính sự khác biệt này đã
tạo ra những sản phẩm riêng thuộc về từng ngời, từng nhóm ngời trong xã hội.
Và do đó để thoả mãn nhu cầu và ớc muốn, con ngời cần phải có sản phẩm
trao đổi.
Thứ t: Là quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Do nền kinh tế tồn tại nhiều hình
thức sở hữu: Sở hữu t nhân, sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân, sở hữu hỗn hợp,
từ đó mà tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, mang lợi ích riêng. Nên quan
hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Mặt khác,
vì mỗi nớc có một lãnh thổ riêng độc lập về chủ quyền và là chủ của các hàng
hoá tạo ra, nên quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết cho hợp tác quan hệ
kinh tế đối ngoại. Và sự trao đổi này phải theo nguyên tắc ngang giá.
Nh vậy sự tồn tại của kinh tế thị trờng là một tất yếu khách quan và
chúng ta không thể dùng sự chủ quan duy ý chí của mình mà phủ nhận sự
hiện diện của nó đợc.
3 Kinh tế thị trờng không những tồn tại khách quan mà còn cần
thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nếu xem xét ở khía cạnh trình độ kinh tế thì xã hội XHCN là xã hội mà
nền kinh tế của nó phải là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Tiến lên
XHCN này ta có thể bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa tức bỏ qua sự thống trị
của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa về mặt chính trị, nhng không thể bỏ
qua đòn bẩy kinh tế thị trờng.
Nền kinh tế tự nhiên trong thời kỳ cổ đại và trung cổ, kể cả mô hình
kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu,
bao cấp ở các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, không thể có sự gắn bó với thị
trờng, nhất là thị trờng thế giới theo đúng nghĩa của nó. Thật vậy, trong thời
kỳ trung cổ thị trờng nếu có cũng chỉ là thị trờng cắt cứ, phong kiến cha thể
hình thành thị trờng dân tộc, nên không thể có thị trờng thế giới. Nền kinh tế
ở các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây, xét về thực chất là mô hình bao cấp
quốc tế. Mô hình này nếu có thị trờng thế giới thì một mặt cũng không đúng
nghĩa, mặt khác, nó cũng bị chia cắt thành các khu vực biệt lập, đối lập
nhau, vận động theo hai cơ chế khác nhau: khu vực thị trờng các nớc xã hội
chủ nghĩa và khu vực thị trờng t bản chủ nghĩa; và theo đó là hội đồng tơng
trợ kinh tế các nớc xã hội chủ nghĩa không còn nữa.Trong điều kiện đó, theo
t duy lý luận cũ, các nớc có nền kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, mất đi điều kiện giúp đỡ khách quan bên
ngoài, mất đi sự giúp đỡ của Liên Xô và Đông Âu. Cứ theo logíc đó gắn với
lối t duy cũ, buộc phải đi đến kết luận là: Sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta là không thể thực hiện đợc. Điều
này trái với thực tế, nớc ta đã và đang tiến lên trên con đờng xã hội chủ nghĩa
bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Thực ra với cơ chế bao cấp Quốc tế qua vốn, qua giá tồn tại lâu ngày,
thị sự sụp đổ của Liên Xô cũ và các nớc Xã hội chủ nghĩa Đông Âu quả thật
trớc mắt có ngây khó khăn cho công cuộc quá độ lên chủ nghĩa bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa. ở nớc ta từ năm 1990 khoản viện trợ hàng năm của Liên
Xô cũ chiếm khoảng 30% tổng nguồn vốn để chi tiêu đã giảm dần, đến năm
1991 chỉ còn 5%. Song nếu xem xét vấn đề một cách cơ bản hơn, và theo lối
t duy kinh tế mới_t duy kinh tế thị trờng diễn ra trong cộng đồng Quốc tế thì
những khó khăn đó bắt đầu giảm dần xuống. Thật vậy:
Một là: Nhờ thông qua cơ chế thị trờng Quốc tế, giúp nớc ta mở
rộng hơn điều kiện bên ngoài, thị trờng bên ngoài so vói thời kỳ bao cấp
Quốc tế. Tất nhiên phải thay đổi chính sách kinh tế đối ngoại theo hớng đa
dạng hóa về hình thức và đa phơng hoá về nguồn lợi dụng thế mạnh của
cộng đồng Quốc gia nhằm đem lại lợi ích cho dân tộc ta, khắc phục khó
khăn về vốn và công nghệ hiện đại.
Hai là: một khi cơ chế bao cấp Quốc tế qua vốn , qua giá không còn
và đựơc thay thế bằng cơ chế kinh tế thị trờng, trong bối cảnh đó sự thay đổi
này buộc các nớc có nền kinh tề kém phát triển muốn nhanh chóng thoát
khỏi vòng luẩn quẩn, vơn lên để trở thành nớc có nền kinh tế phát triển, phải
biết sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế đối ngoại ( xuất nhập khẩu, đầu t
vốn, chuyển giao công nghệ, . . .) một cách khôn ngoan hơn. Đồng thời, ra
sức học tập để nâng cao trình độ quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và
công nghệ mới nhằm phát triển rút ngắn thời gian và tốc độ
Ba là: Công bằng mà nói thế mạnh về kinh tế và công nghệ hịên đại
không thuộc về các nớc XHCN mà thuộc về các nớc T Bản, đặc biệt là Mỹ,
Nhật và các nứơc Tây Âu. Do vậy, bỏ qua chế độ TBCN xét về mặt thực chất
là rút ngắn đáng kể khoảng cách lạc hậu ở nớc ta, thông qua các hình thức
quá độ và những khâu trung gian của CNTB Nhà nớc, có thông qua CNTB
Nhà nớc mới tạo địa bàn thuận lợi cho việc lợi dụng mối quan hệ biện chứng
giữa khoa học- công nghệ và kinh tế thị trờng với t cách là cái cốt lõi để
đa nớc ta đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Bốn là: Ngày nay nhân loại, nhất là các nớc có nền kinh tế kém phát
triển đang đứng trớc vấn đề gay cấn và cấp bách có liên quan đến sự tồn
vong của dân tộc trong đó có nớc ta. Việc giải toả những vấn đề nói trên:
thảm hoạ ô nhiễm môi trờng đã đang và là nhiệm vụ chung của mỗi quốc
gia nhất là trách nhiệm của những nớc t bản phát triển. ở đây tính toàn cầu
hoá và khu vực hoá thông qua sự giúp đỡ Quốc tế đợc coi là đặc trng của
thời đại, một trong những điều kiện khách quan bên ngoài có liên quan đến
lợi ích dân tộc nếu biết khai thác.
Năm là: Thực chất ở nớc ta từ khi mất đi sự viện trợ của Liên Xô cũ,
và sự quyết định đi lên con đờng quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN. Những
khó khăn đã nhanh chóng qua đi, đất nớc và dân tộc ngày càng đợc khẳng
định mình là nhờ cơ chế mới, việc mở rộng thị trờng đón nhận sự giúp đỡ
của Quốc tế ngày càng nhiều và đạt đợc những khởi sắc ban đầu quan trọng.
Nh vậy kinh tế thị trờng đã có tác dụng to lớn góp phần thúc đẩy
tăng trởng và phát triển kinh tế Việt Nam:
Do thói quên của cơ chế cũ đã tồn tại lâu trong t duy của chúng
ta mà bớc đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự cung, tự
túc. Nhng cơ chế kinh tế mới đã hé mở, kinh tế hàng hoá đợc phát triển, dần
phá vỡ đi kinh tế tự nhiên lạc hậu, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, và từ
đó đã thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản phẩm tạo ra phong phú và đa
dạng cộng với nhiều thành phần kinh tế sản xuất đã tạo ra tính cạnh tranh. Vì
vậy mà các chủ thể kinh tế này muốn bán đợc sản phẩm của mình thì buộc
phải đầu t cải tiến kỹ thuật, sử dụng nhng công nghệ mới tiên tiến nhằm tối
thiểu hoá chi phí sản xuất, hạ giá thành, tạo lợi thế và chỗ đứng vững trong
cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao đọng xã hội .
Mặt khác sản phẩm tạo ra muốn bán đợc nhiều thì các chủ thể
sản xuất còn cần phải nắm bắt đợc thị hiếu, sở thích của ngời tiêu dùng, của
thị trờng.Từ đó có những quyết định đúng đắn cho sản phẩm của mình. Do
đó kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, tìm tòi, sáng tạo. Qua đó kích
thích việc nâng cao chất lơng, mẫu mã và tăng khối lợng sẩn phẩm hàng hoá,
dịch vụ, góp phần tăng trởng và phát triển kinh tế.
Cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá là sự phân
công lao động xã hội. Chính vì thế kinh tế hàng hoá sẽ có tác động ngợc trở
lại, sẽ thúc đẩy sự phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất. Nhờ vậy
mà các lợi thế của các vùng hay của cả nớc đợc tận dụng và phát huy, hợp
tác Quốc tế đợc thúc đẩy và mở rộng.
Kinh tế thị trờng phát triển sẽ kéo theo thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất, từ đó tạo điều kiện ra đời của những ngành sản xuất
lớn có trình độ cao; bên cạnh đó cũng chọn lọc ra đợc đội ngũ sản xuất kinh
doanh lành nghề, có trình độ quản lý tốt phục vụ cho nhu cầu phát triển của
nớc nhà.
Vậy chuyển sang KTTT là cần thiết, chuyển sang phát triển KTTT là
phù hợp với xu thế chung của thời đại hiện nay. Kinh tế thị trờng có vai trò
nh là đòn bẩy kích thích sự phát triển của khoa học_cộng nghệ và lực lợng
sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Phát triển kinh tế thị trờng đúng là sự
lựa chọn đúng đắn, tất yếu phù hợp với công cuộc xây dựng đất nớc, một
nhiêm vụ cấp bách để phát triển kinh tế, xoá bỏ đi lối t duy cũ quan liêu của
nền kinh tế lạc hậu, dần đa nớc ta hội nhập kinh tế thế giới, góp phần vào
công cuộc công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Mặt khác, bằng thực tiễn cũng đã chứng minh việc chúng ta chuyển
sang kinh tế thị trờng là hoàn toàn thích hợp. Phát triển kinh tế thị trờng đã
khơi dậy và khai thác đợc tiềm năng trong nớc cũng nh thu hút đợc nguồn
vốn, kỹ thuật, công nghệ và học tập đợc cách thức quản lý từ nớc ngoài, giải
phóng đợc năng lực sản xuất, đẩy nhanh nhịp độ tăng trởng kinh tế.
Phần 2: Những đặc điểm và tính chất cơ bản của
Kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở vn
1 Đặc điểm của Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa ở việt nam.
1.1 Là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kì quá độ của việt nam.
Quá độ nên Chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam chúng ta là một
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự
quản lý vĩ mô của nhà nớc. Tức nền kinh tế nớc ta không phải là kinh tế bao
cấp, tập trung quan liêu của thời kì trớc đây nhng cũng không phải hoàn toàn
là nền kinh tế thị trờng tự do theo đúng cách của các nớc t bản, và cũng cha
hẳn là nền kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa. Bởi chúng ta còn đang trong
giai đoạn của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội , vẫn còn sự hiện diện, đan
xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, tuy đã có những cha đủ các yếu tố
xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, vừa bao hàm
cái chung của nền kinh tế thị trờng, vừa mang cái riêng, cái đặc thù của xã
hội chủ nghĩa.
Cái chung là nó vận động theo quy luật vốn có của kinh tế thị trờng (quy luật
cung cầu, quy luật lu thông tiền tệ, ). Và các phạm trù kinh tế thị trờng vẫn
phát huy tác dụng.
Cái đặc thù là định hớng xã hội chủ nghĩa, để nó không phải là xã hội t bản.
1.2 Mục đích phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trờng nớc ta là nền kinh tế có sự quản lý và điều tiết của nhà
nớc. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt của nền kinh tế thị trờng Việt
Nam với nền kinh tế thị trờng nớc khác, sự khác biệt này trớc hết ở mục đích
chính trị, mục đích kinh tế - xã hội dựa trên truyền thông của Việt Nam làm
định hớng chi phối sự vận động và phát triển của kinh tế nớc nhà.
Phát triển kinh tế thị trờng với mục đích đầu tiên là nhằm giải phóng
sức sản xuất và phát triển lực lợng sản xuất cũng nh tận dụng và khai thác
những nguồn lực trong nớc cùng nguồn đầu t từ nớc ngoài để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thiết lập những mối quan hệ sản
xuất. Hay nói cách khác phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam là nhằm
nâng cao đời sống nhân dân, tạo dựng lên một đất nớc giầu mạnh mà trong
đó tăng trởng kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, sản xuất
phải luôn gắn liền với mục đích cải thiện đời sống nhân dân, khuyến khích
làm giầu một cách hợp pháp, giảm thiểu những hố sâu phân hoá giầu nghèo.
1.3 Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Giống với kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa, kinh tế thị trờng ở Việt
Nam cũng đa dạng về hình thức sở hữu: có sở hữu nhà nớc, sở hữu t nhân.
Nhng trong đó, kinh tế thị trờng t bản lại coi sở hữu t nhân là rất quan trọng,
nó đợc coi nh là bất khả xâm phạm, còn ở Việt Nam sở hữu công cộng là
nền tảng quan trọng nhất.
Gắn liền với đa sở hữu là đa thầnh phần kinh tế: kinh tế nhà nớc, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể, tiểu thủ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế có vốn đầu t nớc
ngoài. Trong đó thành phần kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo. Các thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét