CHÍNH PHỦ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Số: 177/BC-CP Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2008
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI KỲ HỌP THỨ TƯ, QUỐC HỘI
KHOÁ XII
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các đồng chí, đồng bào,
Thay mặt Chính phủ, tôi xin cảm ơn Quốc hội đã bày tỏ sự nhất trí với báo cáo của
Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2008, mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội năm 2009; đồng thời, đã góp nhiều ý kiến làm rõ thêm thực trạng
của tình hình và đề xuất, gợi mở thêm những giải pháp cụ thể, thiết thực.
Gần một tháng qua, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn biến rất
nhanh và phức tạp, nhiều yếu tố mới tác động bất lợi đến việc thực hiện mục tiêu và
các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nêu trong báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội
tại phiên khai mạc Kỳ họp này. Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị và trình Quốc hội
xem xét thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước năm 2009 phù hợp với những biến đổi của tình hình. Các Bộ trưởng,
Thành viên Chính phủ cũng đã trả lời (bằng văn bản và trực tiếp) những vấn đề mà
các vị đại biểu chất vấn thuộc lĩnh vực mình phụ trách (kể cả những chất vấn gửi đến
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ).
Tôi xin trình bày thêm về một số tình hình và những yêu cầu mới cần tập trung chỉ
đạo điều hành và một số nội dung mà nhiều vị đại biểu Quốc hội quan tâm, chất vấn.
I. MỘT SỐ TÌNH HÌNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC GẦN ĐÂY
1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và ứng phó của các nước, dự
báo tác động đến nước ta
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tiếp tục lan rộng trên quy mô toàn cầu và chưa
có khả năng kết thúc sớm. Thị trường tài chính sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ
khủng hoảng nghiêm trọng, nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính lâm vào tình trạng
phá sản. Một số nền kinh tế đã rơi vào suy thoái, hoặc phải yêu cầu Quỹ Tiền tệ thế
giới (IMF) hỗ trợ. Theo nhiều dự báo, tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2009 thấp hơn
nhiều so với năm 2008, trong đó các nước phát triển có mức giảm mạnh nhất[1].
Để đối phó với tình hình này, nhiều nước đang thực thi các giải pháp như: (1) Dành
những khoản tiền lớn từ ngân sách để cứu hệ thống ngân hàng khỏi sụp đổ; (2) Một số
nước phải áp dụng các biện pháp để đồng nội tệ không bị mất giá quá mức; (3)
Chuyển trọng tâm từ chống lạm phát sang chống suy thoái kinh tế, thông qua việc hạ
lãi suất cơ bản, giảm dự trữ bắt buộc, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp để kích thích
nền kinh tế, kích cầu nội địa, ngăn chặn suy giảm sâu do thị trường xuất khNu bị thu
hẹp; (4) Tăng cường phối hợp quốc tế để chống khủng hoảng; (5) Đặt ra những yêu
cầu về cải cách cơ chế quản lý, giám sát thị trường tài chính trong từng nước và trên
phạm vi toàn cầu.
Mức độ trầm trọng của khủng hoảng tài chính toàn cầu và chiều hướng suy thoái của
kinh tế thế giới đang tác động rõ hơn, nhiều hơn đến nền kinh tế nước ta so với dự báo
trước đây, cụ thể là:
(1) Xuất khNu khó khăn hơn. Kinh tế suy giảm, sản xuất và tiêu dùng bị thu hẹp, chủ
nghĩa bảo hộ có xu hướng tăng lên sẽ hạn chế nhu cầu nhập khNu của nhiều nước làm
giảm khả năng xuất khNu của nước ta.
(2) Du lịch sẽ bị ảnh hưởng nặng. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới, lượng
khách du lịch toàn thế giới năm 2009 chỉ tăng 2%[2], mức tăng thấp nhất trong nhiều
thập kỷ qua. Tác động của sụt giảm du lịch toàn cầu đối với nước ta khá rõ: 10 tháng
năm 2008, khách du lịch quốc tế chỉ tăng 3,5% so với 18,6% năm 2007, dự báo năm
2009 sẽ còn thấp hơn.
(3) Đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng sẽ giảm mạnh, một số dự án đã đăng ký
có thể bị đình hoãn do các nhà đầu tư khó khăn trong việc thu xếp vốn.
(4) Đầu tư gián tiếp và lượng kiều hối chuyển về nước sẽ ít hơn; khả năng vay nợ, bảo
lãnh nhập khNu cũng khó khăn hơn.
Những tác động nêu trên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng, việc làm và cán cân
thanh toán tổng thể của nền kinh tế, đặt ra những nhiệm vụ nặng nề trong việc ổn định
vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
2. Tình hình trong nước
Nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, việc triển khai 8
nhóm giải pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phấn đấu kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng hợp lý bền vững; trong
đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu đã đạt được kết quả quan trọng.
Cơn sốt tăng giá đã ngừng lại, tốc độ tăng giá đã giảm nhiều; bình quân 5 tháng gần
đây chỉ còn 0,9 % tháng (thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm và chưa
bằng 1/3 tốc độ tăng giá bình quân 5 tháng đầu năm là 3%), riêng tháng 10 âm 0,19%.
Tuy nhiên, so với tháng 12 năm 2007 lạm phát vẫn còn cao và nguyên nhân sâu xa
của lạm phát chưa được khắc phục. Trong năm 2009, Chính phủ chủ trương điều
chỉnh giá điện, giá than, tăng mức lương tối thiểu theo lộ trình; lũ lụt, thiên tai đã và
sẽ còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sản xuất, giá cả lương thực, thực phNm.
Những yếu tố làm tăng giá tiêu dùng (CPI) vẫn còn, chúng ta không được xem nhẹ.
Giá cả thế giới còn biến động khó lường nhưng có thể không tăng cao; giá nhiều mặt
hàng, trong đó có những mặt hàng xuất khNu lớn của nước ta đang giảm mạnh. Chính
sách tiền tệ đã có sự nới lỏng hơn, lãi suất cho vay đã giảm; tổng mức huy động tiền
gửi và tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng tốt hơn nhưng lãi suất tín dụng vẫn
còn cao, dư nợ tín dụng tăng chậm lại nên sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó
khăn.
Sự tiếp biến có tính quy luật của lạm phát trong nước và sự suy giảm của kinh tế toàn
cầu đã tác động tiêu cực rất rõ đến kinh tế nước ta ngay từ cuối năm 2008 như: xuất
khNu những tháng gần đây đã giảm, riêng tháng 10 thấp hơn mức bình quân 9 tháng
300 triệu USD, giá trị sản xuất công nghiệp tuy có tăng so với cùng kỳ (là 15,4%)
nhưng tốc độ tăng đã liên tục giảm từ tháng 6 đến nay.
Tình hình trên đây đòi hỏi phải có sự điều chỉnh hợp lý mục tiêu tổng quát, các chỉ
tiêu chủ yếu và những nhiệm vụ giải pháp cần thiết.
II. NHỮNG YÊU CẦU CẦN TẬP TRUNG CHỈ ĐẠO
Để hoàn thành mục tiêu chung là: tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý bền vững; bảo
đảm an sinh xã hội; đNy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động
và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự, an
toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2006 - 2010 với các chỉ tiêu chủ yếu: GDP tăng khoảng 6,5%, tạo 1,7 triệu việc làm
mới, đưa tỷ lệ giảm nghèo xuống còn 12%, bội chi ngân sách ở mức 4,82% đòi hỏi
sự nỗ lực phấn đấu với quyết tâm rất cao của toàn Đảng toàn dân, của cả hệ thống
chính trị. Trên cơ sở thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp đã báo cáo với Quốc hội,
cần tập trung chỉ đạo xử lý tốt các vấn đề sau đây.
1. Về chính sách tiền tệ, tài khoá, giá cả
Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng phải rất linh hoạt trong điều
hành. Chính phủ sẽ định lượng cụ thể và triển khai khNn trương yêu cầu linh hoạt này.
Tiếp tục giảm lãi suất cho vay phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Việc khống chế
hạn mức tín dụng chủ yếu phải thông qua các tiêu chí và các công cụ giám sát an toàn
của hệ thống ngân hàng và từng tổ chức tín dụng; bảo đảm an toàn thanh khoản và
phòng ngừa rủi ro, làm cho thị trường tiền tệ vận hành thông suốt, tăng nguồn vốn cho
nền kinh tế với lãi suất hợp lý; đồng thời theo sát sự biến động của giá tiêu dùng trong
nước, diễn biến và xu hướng vận động của của thị trường quốc tế để có phản ứng
thích hợp, không để lạm phát tăng trở lại.
Điều hành tỷ giá linh hoạt hơn để ứng phó có hiệu quả với biến động của các luồng
vốn, hỗ trợ xuất khNu, kiềm chế nhập siêu, giữ ổn định cán cân thanh toán tổng thể và
mức dự trữ ngoại hối cần thiết trong mọi tình huống.
Hoàn thiện cơ chế quản lý, các quy định về sáp nhập và mua lại; tăng cường giám sát
hoạt động của các ngân hàng và các dịch vụ tài chính, kinh doanh bất động sản; nắm
chắc tình trạng nợ trong mỗi tổ chức tín dụng để có phương án chủ động xử lý, giữ an
toàn h
ệ thống và bảo đảm tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân tại các tổ chức tín dụng.
Năm 2009 cân đối ngân sách khó khăn hơn do nhiều khoản thu bị giảm, trong khi nhu
cầu chi đầu tư phát triển, chi tăng lương, an sinh xã hội, khắc phục thiên tai nhiều
hơn. Trong tình hình vừa phải tiếp tục kiềm chế lạm phát, vừa phải ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng bền vững hợp lý, chính sách tài khoá phải hỗ trợ có
hiệu quả hơn cho chính sách tiền tệ. Các chính sách tài chính như: thuế, thu chi ngân
sách, nợ chính phủ (thông qua phát hành trái phiếu) phải nhằm khuyến khích phát
triển sản xuất, tăng đầu tư cho những dự án có hiệu quả để duy trì tăng trưởng, đồng
thời loại bỏ được những dự án chưa thực sự cần thiết, kém hiệu quả, đi đôi với triệt để
tiết kiệm để ngăn chặn nguy cơ lạm phát quay trở lại. Trên thực tế, tiềm năng tiết
kiệm năng lượng, nhiên liệu, tiết kiệm chi phí đi lại, hội họp, lễ hội… trong các cơ
quan và toàn xã hội còn nhiều. Chính phủ sẽ ban hành những quy định cụ thể để biến
các tiềm năng này thành nguồn lực phát triển.
Xoá bao cấp, bù lỗ qua giá, thực hiện giá thị trường những mặt hàng nhà nước định
giá, kể cả lãi suất, để việc phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn; bảo đảm hạch
toán đúng kết quả hoạt động, không chỉ trong từng doanh nghiệp mà cả nền kinh tế.
Theo yêu cầu đó, Chính phủ sẽ hướng dẫn thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận giữa
người vay và các tổ chức tín dụng theo Nghị quyết của Quốc hội; điều chỉnh giá than,
điện với lộ trình phù hợp. Khi thực hiện giá thị trường đối với những hàng hoá, dịch
vụ độc quyền hoặc tính độc quyền còn cao phải dựa trên nguyên tắc bảo đảm hài hoà
quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng; thực hiện kiểm toán
bắt buộc và công khai minh bạch giá thành.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát giá, chống đầu cơ, nâng giá, đặc
biệt là chống hàng giả, gian lận thương mại và buôn lậu qua biên giới.
2. Khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất, đNy mạnh xuất khNu, hạn chế nhập siêu
- Về đầu tư: Trong bối cảnh kinh tế suy giảm, Nhà nước cần phải có giải pháp kích
cầu đầu tư, nhất là những công trình hạ tầng kinh tế - xã hội thật sự cần thiết và có
hiệu quả đi đôi với tăng cường quản lý, khắc phục những tồn tại, yếu kém kéo dài
trong lĩnh vực đầu tư công.
Định hướng đầu tư năm 2009 được Chính phủ xác định là: Tiếp tục đình hoãn các
công trình dự án chưa thực sự cần thiết, kém hiệu quả; tập trung vốn ngân sách, vốn
trái phiếu Chính phủ và vốn doanh nghiệp nhà nước cho các công trình điện, các dự
án sản xuất quan trọng, kết cấu hạ tầng giao thông (cảng biển, các tuyến đường bộ) ở
những vùng có khối lượng hàng hoá lớn nhằm giải toả nhanh các điểm nghẽn tăng
trưởng; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7;
tăng đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và một số lĩnh vực
xã hội cấp bách. Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; khuyến
khích các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển nguồn điện, xây dựng kết cấu hạ
tầng, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến,
phát triển sản xuất và kinh doanh dịch vụ ở nông thôn.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý đầu tư; các quy định về bồi
thường, giải phóng mặt bằng; cải cách mạnh mẽ thủ tục xây dựng cơ bản, quy chế đấu
thầu và cách bố trí vốn nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian chờ đợi triển khai dự án, đNy
nhanh ti
ến độ thi công, sớm đưa công trình vào khai thác, góp phần nâng cao hiệu quả
và tăng tốc độ quay vòng vốn của nền kinh tế.
Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý quy hoạch, kế hoạch, cơ quan chủ quản
đầu tư, chủ đầu tư về hiệu quả đầu tư; tăng cường giám sát đầu tư ngay từ khi lập dự
án, tổ chức thi công và cả trong quá trình khai thác công trình. Mặt khác, phải hoàn
thiện quy hoạch phát triển trên cơ sở lợi thế cạnh tranh dài hạn, tầm nhìn liên vùng để
bảo đảm quy mô kinh tế, phù hợp với dung lượng thị trường trong điều kiện hội nhập
quốc tế và khu vực.
- Về phát triển sản xuất, mở rộng thị trường
Khủng hoảng tài chính làm suy giảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở hầu hết các thị
trường xuất khNu lớn của nước ta và lạm phát cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức
mua trong nước. Trong điều kiện đó, việc bảo đảm chất lượng và nâng cao khả năng
cạnh tranh về giá để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp. Ở đây, doanh nghiệp giữ vai trò hàng đầu nhưng tự mình không thể quyết
định tất cả. Nhà nước phải “chia lửa” với doanh nghiệp. Cùng với việc thực hiện
chính sách tiền tệ linh hoạt đúng đắn để bảo đảm vốn với lãi suất phù hợp như đã
trình bày ở trên; Chính phủ sẽ khNn trương xác định các tiêu chí cụ thể để giảm thuế
và tiếp tục thực hiện việc hoãn, dãn tiến độ nộp thuế cho các doanh nghiệp. Tập trung
giải quyết dứt điểm những thủ tục còn phiền hà, giảm đến mức thấp nhất thời gian và
chi phí cho doanh nghiệp. KhNn trương điều chỉnh mô hình và cơ chế để đưa vào hoạt
động và phát huy hiệu quả Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ;
khuyến khích, hỗ trợ khu vực này phát triển mạnh sản xuất kinh doanh, tạo thêm
nhiều việc làm. Các doanh nghiệp phải lập chương trình tiết kiệm nguyên liệu, năng
lượng, hoàn thiện công nghệ sản xuất và quản lý để tăng năng suất lao động, giảm chi
phí trên từng công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, bảo đảm chất lượng, hạ giá
thành sản phNm đi đôi với việc thiết lập và hoàn thiện các kênh phân phối để chiếm
lĩnh và mở rộng thị trường nội địa.
Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trước hết là các tập đoàn và tổng công
ty. Tăng cường trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh
doanh của khối doanh nghiệp này, hướng vào các ngành nghề kinh doanh chính để
đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Tình hình tài chính và kết quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là
vấn đề được rất nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, trong đó còn không ít các ý kiến
khác nhau khi đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhà nước nói chung, tập đoàn và
tổng công ty nói riêng. Trước Kỳ họp này của Quốc hội, Chính phủ đã có báo cáo về
vấn đề này trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đồng chí Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng
đã trả lời chất vấn. Tôi xin được giải trình thêm như sau:
Cần thống nhất nhận thức về vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang xây dựng, như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX khẳng định: "Kinh tế nhà
nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định
và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước phải
không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ
mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò
ch
ủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội ”. Đây là chủ trương nhất
quán được thể hiện trong nhiều Văn kiện, Nghị quyết của Đảng từ Đại hội VI đến
nay; cần được nhận thức đúng, đầy đủ để tạo sự thống nhất trong đánh giá và hành
động của cả hệ thống chính trị, trong toàn Đảng, toàn dân.
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cần được xác định trên những căn cứ
sau:
+ Với một nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu chuyển đổi, khu vực tư nhân nhìn chung
còn nhỏ, tài sản, vốn, tiềm lực công nghệ còn rất hạn chế, chưa có khả năng đầu tư
lớn, nhất là những công trình giao thông, năng lượng, những công trình công nghiệp
thiết yếu là nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì doanh
nghiệp nhà nước vẫn là lực lượng chủ lực, nòng cốt, cần phải sử dụng và phát huy vai
trò của khối doanh nghiệp này.
+ Để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, Đảng ta chủ trương phát huy tối đa nội lực,
đồng thời tranh thủ ngoại lực, coi nội lực là quyết định. Các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp nhà nước, là thành tố cơ bản của nội lực
cần phải được phát huy.
+ Thực tiễn trong nước và quốc tế ngày càng khẳng định, cùng với việc hình thành
đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, cần phát huy vai trò điều tiết và khả năng
can thiệp của nhà nước để khắc phục những thất bại, khiếm khuyết của thị trường. Sự
can thiệp của nhà nước không phải chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính mà là bằng
các công cụ chính sách, bằng lực lượng kinh tế, trong đó doanh nghiệp nhà nước là
nguồn lực rất quan trọng.
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành khung pháp lý
tương đối đồng bộ để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; thực hiện đổi mới cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, chuyển từ phương thức kế hoạch hóa tập trung
sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xóa bao cấp, loại bỏ độc quyền của doanh
nghiệp nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế; triển khai mạnh mẽ việc
sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, coi đây “là nhiệm vụ cấp
bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ”
như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ
rõ.
Trong những năm qua, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, từ
trên 12.000 nay còn trên 1.700 doanh nghiệp. Đã hình thành các tổng công ty nhà
nước, một số tập đoàn kinh tế (được tổ chức thí điểm) hoạt động đa ngành, đa lĩnh
vực, trong đó có ngành chính, theo đúng Nghị quyết của Đảng, phù hợp với quy định
của pháp luật. Các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn và tổng công ty đã
được cơ cấu lại, thích ứng tốt hơn với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh được nâng lên, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế
xã hội của đất nước (khoảng 40% GDP). Hệ thống doanh nghiệp nhà nước đang giữ
vai trò chủ lực trong phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và kinh doanh
những dịch vụ quan trọng, nhiều lĩnh vực đã mang lại hiệu quả chung cho nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước còn phải đầu tư những công trình ở vùng sâu, vùng xa, kinh
doanh nh
ững lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội lợi nhuận thấp. Trong điều kiện khó
khăn, phức tạp vừa qua, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực sự là công cụ
quan trọng của Nhà nước để điều hành, thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội. Thực hiện các
nhiệm vụ trên đây cũng là nguyên nhân khách quan làm tốc độ tăng trưởng và hiệu
quả kinh doanh của khối doanh nghiệp này thấp hơn các thành phần kinh tế khác.
Mặt khác, phải thấy rõ doanh nghiệp nhà nước còn những yếu kém, bất cập. Mặc dù
có những nguyên nhân khách quan đã nêu nhưng với tổng giá trị tài sản và vốn sở hữu
lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn là chưa tương xứng và khả năng tạo việc làm còn
thấp. Doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các tập đoàn và tổng công ty, chưa phát
huy thật tốt vai trò tiên phong trong việc tổ chức thị trường nội địa, đổi mới công
nghệ, phát triển công nghiệp hỗ trợ; tính liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp
này với khu vực dân doanh còn yếu, vì vậy, chưa thực hiện tốt vai trò đầu tàu và khả
năng dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh. Một số doanh nghiệp còn buông lỏng quản
lý, để xNy ra thất thoát, tham nhũng.
Những yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân từ chính doanh nghiệp
nhưng cũng có nguyên nhân từ cơ chế quản lý và cơ cấu kinh tế. Thái độ của chúng ta
là phải tập trung sức đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước để doanh nghiệp nhà nước thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò của mình trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu khách quan và
cũng là quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm hoàn thiện.
Để khắc phục những yếu kém và hạn chế của doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò
và nâng cao hiệu quả của khu vực này, cần phải tiếp tục thực hiện các công việc sau
đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế luật pháp, tạo dựng môi trường kinh doanh bình
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước
phải tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính, cạnh tranh lành mạnh để
phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh doanh mà nhà nước phân công. Đối với
những lĩnh vực vì nguyên nhân khách quan còn độc quyền kinh doanh, phải có cơ chế
kiểm soát chặt chẽ. Đây là điều kiện tiên quyết, là cơ sở cho việc thực hiện có hiệu
quả các yêu cầu khác.
Hai là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp
nhà nước; phân định rõ trách nhiệm giữa các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
đang được phân công là đại diện chủ sở hữu nhà nước với Hội đồng quản trị là đại
diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp và trách nhiệm của giám đốc điều hành
trong quản trị doanh nghiệp.
Ba là, tiếp tục thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong đó có các tập đoàn
và tổng công ty nhà nước theo kế hoạch đã xác định; thực hiện bán cổ phần cho các
đối tác chiến lược có tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng
tổ chức thị trường. Sơ kết việc thí điểm để hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế.
Bốn là, tăng cường và phát huy vai trò của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà
nước. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
N
ăm là, tăng cường giám sát hoạt động, thực hiện minh bạch, công khai kết quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là hoạt động của các tập đoàn và tổng công ty.
Thực hiện kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán các tập đoàn và tổng công ty nhà
nước. Chính phủ đồng tình và hoan nghênh Quốc hội chọn các tập đoàn và tổng công
ty nhà nước là trọng điểm trong chương trình giám sát năm 2009.
- Đy mạnh xuất khu, kiềm chế nhập siêu
Trong tình hình hiện nay, đNy mạnh xuất khNu, kiềm chế nhập siêu có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng để ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý và ổn định vĩ
mô.
Trước hết, tập trung tăng năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng và giảm giá thành để
tăng xuất khNu các mặt hàng có khả năng cạnh tranh, có thị trường; phát triển xuất
khNu các mặt hàng mới, đi đôi với mở rộng thị trường; có kế hoạch cụ thể tăng xuất
khNu vào các thị trường thuộc khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN - Trung
Quốc, ASEAN - Hàn Quốc và các thị trường ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Khai thác lợi thế do Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam -
Nhật Bản để tăng xuất khNu. Tăng đầu tư cho công tác xúc tiến xuất khNu. Các cơ
quan đại diện ở nước ngoài phải hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp trong việc tìm thị
trường, phát triển bạn hàng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; lấy kết quả xuất
khNu vào từng thị trường làm một trong những tiêu chí để phân bổ ngân sách hoạt
động cho các cơ quan này. Tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát nhập khNu phù
hợp. Khuyến khích sử dụng hàng trong nước, tăng cường nội tiêu, giảm mạnh nhập
siêu.
Năm 2009, nhu cầu hàng nông sản, nhất là lương thực trên thị trường thế giới vẫn cao,
tuy khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng đến sức mua của người dân nhưng những
mặt hàng thiết yếu như lương thực và một số thuỷ sản giá rẻ, ta có lợi thế phát triển
(cá tra, cá ba sa và một số thuỷ sản khác) sẽ ít bị ảnh hưởng và còn là mặt hàng thay
thế cho các loại thực phNm cao cấp khác. Vì vậy, cần tổ chức tốt hơn việc thu mua và
xuất khNu các loại sản phNm này để tăng xuất khNu vào các thị trường đã có, phát triển
các thị trường mới.
Liên quan đến tiêu thụ lúa và điều hành xuất khNu gạo, vấn đề được nhiều đại biểu
quan tâm chất vấn, đồng chí Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã có giải trình bằng văn bản và trả lời tại hội trường, tôi xin
trình bày thêm với Quốc hội và đồng bào cả nước như sau:
+ Nước ta là nước có lợi thế về sản xuất lúa gạo. Cùng với điều kiện tự nhiên thuận
lợi, kỹ thuật canh tác của nông dân ta cũng có rất nhiều tiến bộ. Năng suất lúa bình
quân hiện nay đạt khá cao, 5 tấn/ha/vụ. Sản xuất lúa gạo không những đáp ứng đủ nhu
cầu tiêu dùng trong nước mà trong 20 năm qua (từ năm 1989) chúng ta còn xuất khNu
được 65 triệu tấn với kim ngạch khoảng 17 tỷ USD. Trên 50% sản lượng lúa được sản
xuất và trên 90% sản lượng gạo xuất khNu của nước ta là từ đồng bằng sông Cửu
Long.
+ Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến phát triển sản xuất và tiêu thụ lúa
gạo cho nông dân, đã có nhiều cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể tạo điều kiện
cho nông dân đNy mạnh sản xuất theo hướng thâm canh, tăng năng suất, nâng cao chất
l
ượng, hiệu quả và tăng thu nhập, giúp nông dân vươn lên cải thiện đời sống trong
kinh tế thị trường.
+ Từ trước đến nay, trong điều hành xuất khNu gạo Chính phủ đề ra phải đạt được các
yêu cầu là: tiêu thụ hết lúa hàng hoá với giá hợp lý, có lợi cho nông dân; bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống; ổn định giá gạo trong nước ở mức
phù hợp. Ngay từ đầu năm nay, Chính phủ đề ra chỉ tiêu định hướng điều hành xuất
khNu cho cả năm là 4 - 4,5 triệu tấn và sẽ được xem xét điều chỉnh vào đầu quý III.
Chính phủ cũng yêu cầu tiến độ giao hàng xuất khNu phải phù hợp với nguồn hàng
hoá lương thực của từng mùa vụ, bảo đảm cân đối cung cầu trong nước, không để đầu
cơ tăng giá, góp phần thiết thực vào kiềm chế lạm phát.
+ Trên cơ sở kết quả sản xuất vụ Mùa năm 2007 và dự báo sản lượng lúa Đông Xuân
ở đồng bằng sông Cửu Long, sau khi cân đối bảo đảm cho các nhu cầu tiêu dùng
trong nước, lượng gạo hàng hoá dành cho xuất khNu 6 tháng đầu năm là khoảng 2,3 -
2,5 triệu tấn và đã ký hợp đồng xuất khNu trong 6 tháng đầu năm là trên 2,4 triệu tấn.
Đến cuối tháng 3, giá lương thực thế giới tăng cao và theo nhiều dự báo, thế giới có
thể thiếu lương thực nghiêm trọng, kéo theo giá lương thực trong nước tăng cao; trong
khi đó không ít doanh nghiệp lại tăng cường mua vào (để tích trữ cho xuất khNu) nên
tiếp tục đNy giá gạo trong nước tăng lên. Trước tình hình này, sau khi nghe Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Hiệp hội Lương thực và các cơ
quan liên quan báo cáo về tình hình sản xuất và xuất khNu gạo, ngày 25 tháng 3 năm
2008 Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tạm ngừng ký thêm các hợp đồng xuất khNu mới,
vì các lý do sau đây:
Một là, nguồn gạo hàng hoá dành cho xuất khNu 6 tháng đầu năm được cân đối là 2,3
- 2,5 triệu tấn, chỉ đảm bảo đủ để thực hiện những hợp đồng đã ký là 2,4 triệu tấn. Và
tại thời điểm này (cuối tháng 3), chúng ta mới giao được 800 nghìn tấn, còn phải giao
1,6 triệu tấn trong các tháng tiếp theo (4, 5, 6). Việc tạm dừng ký thêm hợp đồng xuất
khNu mới để tập trung lượng gạo hàng hoá cho các hợp đồng xuất khNu đã ký là cần
thiết vì nguồn hàng cân đối dành cho xuất khNu không còn.
Hai là, vào thời điểm này, ở các tỉnh miền Bắc bị rét đậm, rét hại kéo dài lịch sử 38
ngày làm 200 nghìn ha lúa Đông Xuân đã cấy và trên 17 nghìn ha mạ đã gieo bị chết,
phải gieo cấy lại, đến ngày 15 tháng 3 năm 2008 mới xong, chậm so với thời vụ bình
thường 15 - 20 ngày (dự báo khả năng 50% được mùa, 50% thất mùa); lúa Hè Thu ở
đồng bằng sông Cửu Long chưa gieo xạ. Thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp,
chưa đủ căn cứ để dự báo kết quả thu hoạch. Việc tạm dừng ký hợp đồng xuất khNu
mới (ký bán thêm gạo) cho đến khi đánh giá được kết quả các vụ lúa này là nhằm bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia trong trường hợp bị thất mùa (cả vụ Đông Xuân ở
miền Bắc và Hè Thu ở đồng bằng sông Cửu Long).
Ba là, từ cuối tháng 3 giá gạo trên thế giới tăng cao, có ý kiến đề nghị cho ký hợp
đồng xuất khNu thêm để tận dụng cơ hội thị trường khi giá gạo đang cao. Nhưng nếu
chúng ta cho ký hợp đồng mới, bán thêm gạo và giao hàng ngay trong các tháng 4, 5,
6 thì có thể bán được một số ít gạo với giá cao hơn nhưng các doanh nghiệp sẽ phải
mua vét phần gạo cân đối để tiêu dùng trong nước đem đi xuất khNu. Điều này sẽ đNy
giá gạo trong nước, vốn đã cao, càng lên cao hơn, kéo theo giá các hàng hoá khác
tăng mạnh, chắc chắn sẽ làm chỉ số lạm phát tăng cao, gây thiệt hại cho toàn xã hội và
ngay cả những người trồng lúa. Còn trường hợp nếu không may vụ Đông Xuân ở
miền Bắc hoặc vụ Hè Thu bị thất mùa thì nước ta sẽ thiếu lương thực lớn, hậu quả về
kinh t
ế, xã hội sẽ rất nghiêm trọng. Tóm lại, việc tạm dừng ký bán thêm gạo giao
ngay trong tháng 4, 5, 6 là cần thiết nhằm bảo đảm đủ tiêu dùng trong nước, giữ giá
gạo trong nước hợp lý, không bị đNy lên quá cao, góp phần quan trọng, thiết thực vào
việc thực hiện mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát[3] và bảo đảm an ninh
lương thực cho đất nước trong tình huống bất trắc rất khó lường.
+ Để tận dụng giá xuất khNu gạo cao, Chính phủ đã chỉ đạo các doanh nghiệp xuất
khNu tiến hành đàm phán với khách hàng điều chỉnh tăng giá đối với các hợp đồng đã
ký và nhiều hợp đồng đã được điều chỉnh.
+ Từ đầu tháng 6, khi tình hình vụ Đông Xuân ở miền Bắc và vụ Hè Thu ở đồng bằng
sông Cửu Long có triển vọng tốt, Chính phủ đã chỉ đạo ký tiếp các hợp đồng xuất
khNu mới. Đến ngày 10/11 các doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất khNu được trên 4,5
triệu tấn. Hiện các doanh nghiệp đang tiếp tục đàm phán để ký hợp đồng bán với khối
lượng lớn (trên 1,5 triệu tấn) và sẽ giao hàng ngay từ tháng 12 năm 2008.
+ Việc tiêu thụ gạo những tháng cuối năm có gặp khó khăn, do nhiều nguyên nhân,
trước hết là do giá gạo thế giới giảm dần; ở trong nước năm nay là năm được mùa, sản
lượng lúa cả năm ước tăng 2,6 triệu tấn so với năm ngoái[4]; lúa Hè Thu và Thu
Đông, nhất là giống IR50404, OM576 tuy năng suất khá hơn, dễ làm hơn, nhưng chất
lượng thấp nên khó bán và giá thấp hơn nhiều so với lúa Đông Xuân; tuy đã được
khuyến cáo, nhưng vụ Hè Thu ở đồng bằng sông Cửu Long nông dân vẫn gieo cấy
các giống này chiếm tới 30 - 35% diện tích. Mặt khác, lãi suất vay ngân hàng tương
đối cao nên các doanh nghiệp cũng khó khăn hơn trong việc mua tạm trữ.
Để tiêu thụ lúa hàng hoá còn lại cho nông dân, Chính phủ đã khNn trương chỉ đạo và
hỗ trợ thiết thực các doanh nghiệp đNy mạnh mua vào. Sau khi hoàn thành chỉ tiêu
mua 900 nghìn tấn gạo, hiện các doanh nghiệp vẫn đang tiếp tục mua thêm (trong đó
có 300 nghìn tấn gạo mua theo chỉ đạo của Chính phủ) để tiêu thụ hết lúa hàng hoá và
bảo đảm nguồn hàng cho các hợp đồng đã ký và có gối đầu cho xuất khNu trong quý I
năm 2009.
+ Trong điều kiện khó khăn, phức tạp nêu trên, tuy dự báo chưa thật chính xác nhưng
việc điều hành xuất khNu gạo như đã báo cáo trên đây là vì lợi ích tổng thể, toàn cục
của đất nước và cơ bản đã đạt được các yêu cầu đề ra. 6 tháng đầu năm xuất khNu
được trên 2,4 triệu tấn, tăng 50 nghìn tấn so cùng kỳ; đến hết tháng 10 đã xuất khNu
được trên 4 triệu tấn; ước cả năm xuất khNu đạt khoảng 4,7 triệu tấn, tăng khoảng 200
nghìn tấn so năm trước, kim ngạch đạt khoảng 2,8 tỷ USD, giá xuất khNu đạt trên 600
USD/tấn, gấp đôi năm ngoái (tương đương với giá gạo xuất khNu Thái Lan); an ninh
lương thực quốc gia được bảo đảm; giá lương thực trong nước cơ bản giữ được ổn
định, góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là kiềm
chế lạm phát.
+ Theo điều tra của Bộ Tài chính, mặc dù vụ Đông Xuân ở đồng bằng sông Cửu Long
năm nay, các chi phí đầu vào tăng mạnh nhưng giá bán lúa tăng cao hơn, nên tỷ lệ lãi
sau khi trừ chi phí đạt trên 85%[5], tăng đáng kể so với vụ Đông Xuân năm ngoái
(70%). Vụ Hè Thu tỷ lệ lãi đạt thấp hơn, khoảng 20%[6] (riêng lúa IR50404 tính
chung cả vụ thì có lãi khoảng 5%)[7]. Tính bình quân cả 2 vụ Đông Xuân và Hè Thu
tỷ lệ lãi vẫn đạt khoảng 60%. Tuy vậy, trong điều kiện lạm phát tăng cao, với thu
nhập này thì đời sống người trồng lúa vẫn còn nhiều khó khăn.
Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện các giải pháp cần thiết để hỗ trợ bà con nông dân
trồng lúa và yêu cầu các Bộ chức năng nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm để chỉ
đạo điều hành tốt hơn. Về lâu dài, Chính phủ cũng đang chỉ đạo xây dựng Đề án bảo
đảm an ninh lương thực quốc gia, đề ra các giải pháp khắc phục các hạn chế yếu kém,
giải quyết một cách căn bản, dài hạn và có hiệu quả hơn về sản xuất, kinh doanh và
bảo đảm an ninh lương thực, trong đó bảo đảm lợi ích thoả đáng cho người trồng lúa
vừa là mục tiêu vừa là giải pháp có ý nghĩa quyết định.
3. Về bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 thấp hơn năm 2008 làm cho điều kiện để giải
quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội có nhiều khó khăn hơn. Chính phủ chủ
trương tập trung làm tốt các việc quan trọng sau đây:
+ Bố trí đủ kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã có trong dự toán
ngân sách của từng Bộ và địa phương; khNn trương chuyển các khoản hỗ trợ đến đúng
đối tượng thụ hưởng; tăng cường công tác kiểm tra giám sát, không để thất thoát; xử
lý nghiêm những tổ chức, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, làm sai các quy định,
những trường hợp để tiêu cực, tham nhũng; thực hiện minh bạch, công khai các chính
sách an sinh xã hội để mọi người thực hiện và giám sát.
Tập trung chỉ đạo triển khai lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp; xây dựng và triển khai
nhanh đề án hỗ trợ các huyện có tỷ lệ nghèo cao nhất nhằm giảm nghèo nhanh ở các
huyện này; tiếp tục trợ cấp cho những người có mức lương thấp cho đến khi thực hiện
điều chỉnh lương tối thiểu chung; nâng cao năng lực của ngân hàng chính sách để thực
hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng an sinh xã hội và đáp ứng các nhu cầu vốn
cho người nghèo và cho học sinh, sinh viên nghèo vay học tập. Tăng cường sự trợ
giúp của Nhà nước và cộng đồng trong các lĩnh vực an sinh xã hội và giảm nghèo.
Bằng các giải pháp kiên quyết không để cho hộ nghèo nào bị đói do thiếu lương thực.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Cùng với yêu cầu bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội, hiện nay, vấn đề môi trường và vệ
sinh an toàn thực phNm là những vấn đề lớn, ảnh hưởng đến sức khoẻ và cuộc sống
của mỗi người dân, được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm. Đồng chí Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Y tế đã trả lời chất vấn. Tôi xin trình bày
thêm mấy vấn đề sau đây.
Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường
và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phNm. Hệ thống thể chế ngày càng được hoàn thiện;
công tác tổ chức bộ máy chuyên trách được kiện toàn; việc thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm được tăng cường; ý thức về vệ sinh an toàn thực phNm, về bảo vệ môi trường
sống cho cộng đồng và tự bảo vệ mình của nhân dân tuy có được nâng lên nhưng nhìn
chung, lĩnh vực này vẫn còn nhiều yếu kém, khuyết điểm từ trong hoạt động quản lý
nhà nước, trách nhiệm của các doanh nghiệp và cả trong nhận thức, ý thức của mỗi
người dân. Chính phủ đã nghiêm túc nhìn nhận rõ tầm quan trọng của công tác này và
xác định yêu cầu chỉ đạo trong thời gian tới là tập trung khắc phục tình trạng ô nhiễm
nghiêm trọng, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm; kiên quyết không cấp phép cho các
d
ự án, công trình có nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường; đồng thời phải tập trung làm
tốt các trọng tâm công tác sau đây:
(1) Rà soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch phát triển. Kết hợp chặt chẽ và
hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; lấy bảo vệ
môi trường, bảo đảm phát triển bền vững làm điều kiện để giải quyết mục tiêu tăng
trưởng; quán triệt sâu sắc các yêu cầu này trong việc lập, thNm định, phê duyệt và tổ
chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và dự án đầu tư. Kiên quyết
không vì lợi ích trước mắt mà tiếp nhận, dung túng cho những dự án, doanh nghiệp
gây ô nhiễm môi trường.
(2) Tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và vệ sinh
an toàn thực phNm theo yêu cầu hoàn thiện các tiêu chuNn, phân định rõ quyền hạn và
trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý ngành và lãnh thổ; tăng cường sự phối hợp giữa
các cơ quan này; bổ sung các chế tài đủ mạnh để tăng tính hiệu quả của pháp luật.
(3) Đề cao trách nhiệm quản lý nhà nước của các ngành chức năng, đặc biệt là trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trên địa bàn trong việc thực hiện các quy
định pháp luật về bảo vệ môi trường và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phNm.
(4) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả việc
đình chỉ hoạt động, rút giấy phép kinh doanh hoặc truy tố trước pháp luật. Tăng
cường lực lượng cán bộ cả về chất lượng và số lượng, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở
vật chất kỹ thuật để công tác kiểm tra, thanh tra và xử phạt vi phạm đạt hiệu quả cao
hơn.
(5) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức trách
nhiệm của cả cộng đồng và mỗi người dân trong phòng, chống các vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phNm.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tình hình kinh tế thế giới và trong nước đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ nặng nề,
phức tạp trong việc tiếp tục kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng hợp lý bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Sự biến
động khó lường của kinh tế thế giới đòi hỏi phải làm tốt hơn công tác dự báo và phân
tích tình hình, phản ứng kịp thời, nhanh nhạy và linh hoạt hơn trước mọi biến động.
Phải đặc biệt coi trọng công tác thông tin, tuyên truyền, thực hiện công khai, minh
bạch các chính sách quản lý và tình hình kinh tế đất nước. Khó khăn, thách thức rất
lớn nhưng chúng ta cũng có những thuận lợi cơ bản: lạm phát đã được kiềm chế một
bước quan trọng; tăng trưởng kinh tế năm 2008 khá cao (khoảng 6,7%); ổn định chính
trị và xã hội được giữ vững; nhân dân ta có truyền thống năng động sáng tạo khắc
phục và vượt qua khó khăn, luôn tin tưởng và phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Khơi dậy và phát huy truyền thống tốt đẹp đó cùng với
việc vận dụng tốt những bài học mà Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội trong phiên
khai mạc, tiếp thu những đóng góp thiết thực của các vị đại biểu tại kỳ họp này, Chính
phủ sẽ khNn trương xây dựng chương trình hành động cụ thể để thực hiện có kết quả
cao nhất các Nghị quyết của Quốc hội. Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội
tăng cường giám sát và trên cương vị công tác của mình mỗi vị đại biểu Quốc hội có
những đóng góp tích cực cùng toàn Đảng, toàn dân biến thách thức thành cơ hội phát
triển, phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch kinh tế xã hội
n
ăm 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét